Author: Whisperer
Phần 1
Ngày thứ tư của chuyến di cư. Một ngày vô cùng đẹp trời, đánh dấu sự chuyển giao giữa hai kỷ[i] trong năm đã đến hồi kết. Nắng dịu ngọt và ấm áp hẳn, làm cho cái lạnh mà rừng rậm phủ lên người nhanh chóng tan biến.
Tuy nhiên, các nhân thú chẳng ai cảm thấy vui vẻ hay kỳ vọng gì quá nhiều ở tiết trời đẹp như hôm nay. Trái lại, họ đang phải đương đầu với một bầu không khí vô cùng căng thẳng. Sự u ám và rùng rợn đã khiến ban ngày sáng sủa vui tươi trông không khác gì một màn đêm ảm đạm.
“Công Chúa vẫn chưa chịu ăn gì sao?” – Già làng Shizu lo lắng hỏi Masumi, người đang cầm cương ngựa đi song song với xe kéo của mình.
“Vẫn chưa, thưa già làng.” – Đưa mắt về phía sau với một tâm trạng buồn não ruột, Masumi đáp.
Nghe vậy, bà lão thở dài, làm không khí lại càng thêm u sầu. Thấy bà vẫn không ngớt lo lắng về cô bé Fujinomiya Yuuri, người đang giữ cương ngựa xe kéo, Mando, đành lên tiếng.
“Già làng đừng quá lo lắng… Chúng ta đã làm rất tốt những gì có thể làm rồi…”
Miệng nói là trấn an, song Mando cũng chẳng cảm thấy lòng ông lắng xuống chút nào. Trận chiến rạng sáng hôm qua quả thực đã để lại một cú sốc kinh hoàng cho tất cả mọi người, kể cả bản thân ông, một người đã tử nạn vì nó.
Nhắc đến lúc ấy, có lẽ sự kịp thời của Yuuri đã cứu sống lấy Kurogane Kihaza. Trong một phút giây bức bách khi cảm thấy bản thân quá chậm chạp, cô bé đã tự mình tạo ra Độn Thổ rồi sử dụng để tìm đến làng Miran. Khi mà cảnh tượng kinh hoàng nơi hai người quan trọng nhất của cô, một đã chết, một đang hấp hối bày ra trước mắt, Cửu Vĩ trong cô đã bừng tỉnh, mãnh liệt hơn cả trong trận chiến với lũ Ogre khổng lồ. Nó đã cướp lấy sinh mạng của hơn một nghìn con người chỉ bằng cách ngự trị những cơn gió. Những lưỡi đao vô hình mà cô tạo ra đã biến đạo quân của Mitsuki và cả hắn thành một đống thây không có đất chôn.
Cũng nhờ có Độn Thổ, Yuuri đã mang được Kihaza và xác của Mando về chỗ đoàn di cư. Và lần thứ ba ma thuật ấy phát huy tác dụng là khi cô tiếp tục đuổi kịp Masumi rồi đưa cả hai quay trở lại.
Nhưng từ khi ấy cho đến tận bây giờ, cô bé vẫn chưa nhìn mặt một ai ngoài Mando, người được cô hồi sinh bằng chính Chiêu Hồn Thuật của Kihaza, Deadman’s Call. Ông được cô mang trở lại chỉ để hỗ trợ rửa vết máu trên người chàng thanh niên đã dùng toàn bộ sức mạnh để cứu lấy làng Miran và băng những vết thương của cậu lại. Sau đó, cô yêu cầu ông rời khỏi xe ngựa kéo, đồng thời tạo ra một bức màn ma lực đặc biệt, một loại kết giới mở làm cho tất cả những gì ở bên trong xe kéo trở nên vô hình.
Từ thời điểm đó, Fujinomiya Yuuri vẫn chưa rời khỏi kết giới ấy, hay đòi hỏi bất cứ gì từ đoàn di cư. Điều đó khiến ai cũng lo lắng, không chỉ vì cô vẫn chưa ăn một bữa nào kể từ khi tỉnh lại sau ma thuật thôi miên của Kihaza, mà còn vì chính sự an toàn của cô. Khi đem cậu về, hơi lạnh cùng hắc ám khí không ngừng bao phủ lấy cơ thể ấy, khiến từng thớ da của chàng thanh niên lạnh cứng như băng, tựa hồ như một xác chết thực sự. Với các Nhân Thú, để Công Chúa của họ ở riêng với Chiêu Hồn Sư, dù có là người đã cứu họ khỏi kiếp nạn diệt vong thì chẳng thể an toàn được chút nào.
Với Mando, một người đã chết như ông có thể hiểu được sự đáng sợ khi cảm giác tử thần thực sự lôi mình xuống địa ngục một cách tàn bạo ập đến một cách bất ngờ. Ông không còn dễ biến sắc khi mà trái tim của ông đã nguội lạnh bởi thứ ma thuật hắc ám mà chính bản thân gọi là những lời nguyền. Và khi có cô bé Yuuri ở bên cạnh, ông tin Kurogane Kihaza sẽ ổn hơn, có lẽ nhiều hơn so với những người đang phải gồng gánh áp lực và căng thẳng ở bên ngoài đây.
“Masumi này…”
Sau một hồi quan sát, Mando hơi nghiêng đầu về phía người phụ nữ Tiên Tộc đang cưỡi ngựa.
“Cô nên lên phía trước an ủi tụi nhỏ thì tốt hơn là ở đây và chờ đợi.”
Không phải Masumi là người duy nhất không ngủ trong đêm hôm qua. Đoàn di cư luôn dừng lại vào lúc mặt trời lặn và cắm trại nghỉ ngơi, rồi lên đường khi trời vừa nhá nhem. Đêm vừa qua là một đêm bận rộn và căng thẳng, không chỉ với người mẹ lòng đau như cắt khi chứng kiến tình trạng thừa chết thiếu sống của con trai mình. Lúc Yuuri mang Kihaza về cũng là lúc mà đám trẻ bạn cùng trang lứa với cậu tan học, tiếp tục quay lại thế giới này giúp đỡ người dân di cư an toàn. Chúng cũng hứng chịu một cú sốc mạnh mẽ, với tư cách là những người bạn. Tuy không quá thân thiết với cậu, song chúng lúc nào cũng hiểu được phần nào những toan tính thầm lặng của một người bạn học thiên tài xuất chúng, để rồi vỡ òa trong sự suy sụp và hụt hẫng trước cơ thể tàn tạ của Kihaza.
Khi nhận ra rằng sự căng thẳng đã đè lấy tâm trí tất cả mọi người, nhờ có Mando nhắc nhở, Masumi mới hiểu được rằng cô phải là người đầu tiên bình tĩnh và tự giải tỏa bản thân khỏi nỗi u ám nặng nề. Cô cảm ơn ông, rồi đánh ngựa đi lên phía trước, đến bên những đứa trẻ. Chúng vẫn đang làm tốt công việc của những người bảo vệ, tay luôn sẵn sàng vũ khí, sẵn sàng chiến đấu khi có quái vật hay những chủng Orc rừng sinh sống gần nguồn nước. Tuy vậy, gương mặt chúng vẫn rầu rĩ, không thôi lo lắng.
“Các cháu…”
“Ah, cô Masumi…”
Đôi bên nhìn nhau gượng gạo thấy rõ. Nặng nề trong từng lời nói là vậy, nhưng Masumi cố gắng đưa chuyện.
“Tomo sao rồi?”
Trong toàn bộ kế hoạch của Kihaza, kể từ những bước đi đầu tiên cho tới lúc được Yuuri mang về đoàn di cư, người mường tượng được nhiều nhất chính là cô bé Tomomi. Người được chọn để đi theo cậu, nhận lấy chỗ tiền từ Giáo Hội là cô, và cũng chính cô là người đã chứng kiến cảnh cậu bị Iago Badder bắt gọn. Từ lúc ấy, cô bé đã bị lương tâm dày vò khi bản thân đã không tương trợ giúp đỡ cho Kihaza, và cho đến lúc nhìn thấy cơ thể của cậu nhuộm đỏ máu của chính mình lẫn kẻ thù, thoi thóp, chút hi vọng nhỏ bé trong lòng cô vỡ vụn.
Masumi tìm đến cô bé đầu tiên là vì điều này. Cô muốn làm gì đó để tình trạng của Tomomi khá lên chút đỉnh. Một cô bé hoạt bát và năng nổ như vậy nay lại lùi lủi ở một góc xe kéo đi phía trên, thất thần và suy sụp hoàn toàn, phỏng theo hướng mà cả bạn bè cô nhìn.
“Vẫn không có gì khả quan, cô ạ. Tomo không chịu nói chuyện, ăn uống cũng thất thường…”
Munechika vừa trả lời xong đã thở hắt ra một hơi. Có lẽ cậu là người duy nhất có tâm thế đủ vững chãi trước những cú sốc liên tiếp vừa rồi, để không rơi vào những nỗi lo âu triền miên vô định.
“Ừ, cô hiểu cảm giác của con bé. Dù sao chúng ta không thể trách Tomo được…”
“Còn phía bên cô thì sao? Kihaza sẽ sống chứ?”
Không ai dám chắc chắn mười phần vào một câu trả lời tích cực vào lúc này, và Masumi chỉ lắc đầu buồn bã. Munechika cũng không biết làm gì ngoài an ủi cô bằng một câu đơn giản: “Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi cô ạ”, rồi ngay lập tức trở về vị trí. Mắt cậu ta hơi liếc về phía chiếc xe ở phía sau, nơi mọi thứ trên xe đều đã biến mất vì hiệu lực của kết giới, hi vọng một chút nhỏ nhoi rằng lời nói ấy sẽ thành sự thật.
Lại một hoàng hôn nữa vừa buông xuống, và đoàn di cư cũng dừng lại để nghỉ ngơi. Hơn tám trăm nhân thú chia làm bốn nhóm theo tám xe lương thực mà họ đã gói ghém trước khi rời làng. Cứ mỗi nhóm lại chia thành từng hội nhỏ hai mươi người, đủ cả già trẻ lẫn trai gái. Trẻ con thì nhặt những khúc gỗ xung quanh khu vực nghỉ chân để người lớn nhóm lửa, chuẩn bị nấu nướng. Họ nhanh chóng ổn định, như những buổi tối hôm trước, rồi dùng bữa trong im lặng.
“Vẫn chưa có động tĩnh gì sao?”
Một số nhóm thì thầm hỏi nhỏ nhau, mắt hơi liếc sang chiếc xe ngựa kéo mà già làng cùng với Mando đang nghỉ ngơi. Kết giới vẫn chưa được gỡ bỏ, cũng có nghĩa là câu hỏi lớn nhất lúc này hãy còn chờ lời giải đáp.
Kurongane Kihaza sẽ sống? Và có tỉnh lại?
Đưa miếng lương khô lên miệng, Masumi vẫn không ngừng tự hỏi mình. Cảm giác cứng khiểng và nhạt nhẽo như muốn cắt đứt dòng suy nghĩ con người, song vẫn không khiến cô thôi lo lắng. Tình trạng của Tomomi có lẽ chỉ không tệ hơn mạng sống của con trai cô, và một chút hi vọng vào một câu trả lời khả quan sẽ phần nào giải tỏa được cú sốc nặng nề ấy.
“Mando, ông cũng nên nghỉ ngơi một chút đi.”
Trong lúc đó, già làng Shizu đưa tay mời Mando, người vẫn đang đứng sừng sững như cái cột lớn già cỗi mà quan sát xung quanh.
“Xin phép cho tôi từ chối, thưa già làng. Người đã chết như tôi thì không thấy mệt đâu, bà đừng quá lo lắng.”
Không đau đớn, không mệt mỏi, không thể bị giết bởi những vũ khí đơn thuần như gươm giáo, đó là sức mạnh của Deadman’s Call. Chính bản thân Mando trước khi chết cũng đã biết đến nó, và nay, khi cơ thể mình được hồi sinh lại cũng bằng thứ ma thuật này, ông mới hiểu tại sao nó được coi là cấm thuật.
Deadman’s Call mang lại cho ông cảm giác của một nô lệ và một tù nhân. Kỳ thực, Mando đã rất muốn tự mình bước vào trong kết giới, song một nguồn lực tâm lý vô hình nào đó luôn ngăn ông thực hiện ý định ấy. Sau gần nửa ngày, ông mới nhận ra rằng mình được cô bé Fujinomiya Yuuri hồi sinh trở lại. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cô đang thao túng mọi hành vi và suy nghĩ của ông, là lý do mà ông không thể tự do làm điều mình muốn.
Sự tùng túng của thứ ma thuật Chiêu Hồn này có lẽ chính là cơ thể của kẻ đã chết, Mando nghĩ. Không thể ăn uống, sinh hoạt như một con người bình thường, không thể tiếp tục sống và chịu ảnh hưởng của sự lão hóa, nó quả thực khiến cho kẻ chết đi lại càng thèm khát cái chết. Có thể không phải bây giờ, nhưng rồi cũng có một ngày, những kẻ được hồi sinh bởi Deadman’s Call sẽ hóa điên mà trở thành một Undead thứ thiệt, vô hồn và lạnh lẽo.
Nhưng với một Chiêu Hồn Sư như Mando, sự thấu hiểu ma thuật mà mình nghiên cứu không khiến ông sợ nó. Ông và Kihaza đều biết rõ nguyên tắc đầu tiên mà không Chiêu Hồn Sư nào không hiểu, đã mang trong mình cái nghiệp này thì cái chết rồi cũng sẽ tới, và ma thuật Chiêu Hồn là một người bạn không thể thiếu với họ. Vào lúc này, Deadman’s Call quả thực hữu dụng, vì nó đã giúp ông tiếp tục làm những việc còn dở dang, và cảm giác không mệt mỏi này lại càng khiến ông có thêm động lực để không phải ngồi xuống nghỉ ngơi.
“Vậy thì xin cảm ơn ông vì đã giúp đỡ dân làng, Mando.”
Gương mặt già làng Shizu trước ánh lửa cứ như muốn nói, có lẽ nhân loại vẫn còn có người tốt, kể cả khi họ là những kẻ phản bội cả đồng loại của mình. Mando cũng chỉ mỉm cười đáp lại, rồi một lần nữa tập trung đôi mắt vào màn đêm phủ xuống cánh rừng.
Sau khi dùng bữa, lửa tiếp tục được tận dụng để sưởi ấm. Cái lạnh về đêm trong rừng thực sự đáng sợ không chỉ đối với con người. Nhân Thú có một sức chịu đựng vượt trội hơn, song họ chưa một lần tự mãn vì khả năng ấy. Luôn giữ ấm và không để bất cứ bệnh dịch gì phát sinh vào lúc này là điều quan trọng vô cùng. Tốc độ di chuyển sẽ giảm xuống nếu có bất cứ bất trắc xảy ra, cũng đồng nghĩa với việc quân Ishens, những kẻ thù thực sự ở phía sau, càng có cơ hội bắt kịp họ.
Đêm dần buông xuống, và đoàn di cư quây quần bên nhau, không tìm được gốc, thân cây để ngồi thì cũng trải bạt, gần như đồng loạt chìm vào giấc ngủ vì sự căng thẳng.
Tuy nhiên, có những người không thể nào chợp mắt được, vì họ lúc nào cũng phải đề cao cảnh giác. Họ luôn sẵn sàng bảo vệ cả đoàn, là những người sẽ báo hiệu có nguy hiểm và đương đầu với quái vật, tệ hơn là Orc.
Khu rừng này ở gần dãy Wrym, một địa bàn tương đối rộng lớn của chủng Orc. Dãy núi như một con Thổ Long[ii] nằm giữa Astrile, chia lục địa này thành hai nửa không cân xứng. Nghe những tiếng đồn xa của những người từng đi qua Wrym, có rất nhiều Orc ở bên kia dãy núi, nơi giáp với lục địa hắc ám Ziakari. Những bộ lạc mạo hiểm vượt núi băng qua là minh chứng cho sự bành trướng của loài sinh vật này.
Với quá nhiều lời đồn tiếng nói như thế, những người bảo vệ đoàn di cư lại càng phải tập trung hơn. Sự căng thẳng cứ như thế đè lên vai họ, khiến mồ hôi phải ứa ra trong khi màn đêm đã phủ trùm cánh rừng bằng sự lạnh lẽo và tĩnh mịch.
Mando vẫn chưa một lần rời mắt khỏi Masumi. Ông hiểu nỗi lo lắng của cô, song sự thật là cô vẫn chưa chợp mắt kể từ khi Kihaza được mang về vẫn khiến người đàn ông ấy cất lời.
“Cô nên đi nghỉ đi, Masumi. Chỉ cần một mình ta canh gác ở phía sau là được rồi.”
“Cảm ơn ông, Mando. Tôi vẫn chưa mệt.”
Nói dối, nói dối quá trắng trợn, người đàn ông dày dạn kinh nghiệm ấy thầm nghĩ. Chỉ cần ngồi như vậy thêm một lúc nữa, Masumi chắc chắn sẽ gục xuống mà ngủ. Cơn mệt mỏi đã khiến toàn thân cô rã rời, thực sự.
Nhưng chuyện đó lại không tới. Mando bỗng quay đầu, nhìn về phía màn đêm. Gió có thể hiu hắt văng vẳng trong tai, nhưng tiếng đất đá và cỏ bị giẫm lên thì không thể lẫn vào đâu được.
Là tiếng bước chân, ông khẳng định. Và chúng đang tiến lại rất gần, rất nhanh. Điều đó cũng đồng nghĩa với sự hiện diện của mối rủi ro tệ hại nhất.
“Orc!!!”
Thét lớn cảnh báo, Mando ngay lập tức thủ thế. Tiếng kêu ấy nhanh chóng đánh động những người bảo vệ và một bộ phận nhân thú đang ngủ, khiến họ choàng tỉnh, để rồi hoang mang lo sợ.
“Bảo vệ dân làng!”
Utsuro đưa chỉ thị vô cùng ngắn gọn, và ngay lập tức nhảy lên ngựa. Rút katana ra khỏi vỏ, ông bắt đầu lắng nghe âm thanh đang mỗi lúc một gần hơn, để hai tay bắt đầu nắm chắc lấy chuôi kiếm, sẵn sàng nghênh chiến.
Từ từ hiện ra trong đêm tối là những con Orc gớm ghiếc. Dưới ánh lửa, gương mặt dị hợm của chúng giống như một cơn ác mộng với những hàm răng nhọn mẻ cùng nước da khô nẻ, đen khịt như than. Chúng có kiếm, áo giáp và rất đông đảo. Toàn bộ tám trăm nhân thú đã bị một vòng vây gần ba trăm Orc chặn mọi lối thoát.
“Bọn chúng đông lắm!! Utsuro, ông mau ra lệnh cho họ cố thủ đi!”
Mando là người có đủ hiểu biết về thứ sinh vật đến từ lục địa hắc ám này. Orc có thể sống được ở một nơi khắc nghiệt như Ziakari là nhờ vào thể chất vượt trội. Khi trưởng thành, một con Orc có thể đấu với ba người thường và đủ khỏe khiến cho hai nhân thú phải ngán ngẩm.
So với ba trăm con Orc, các nhân thú đang bị lép vế. Phân nửa trong số họ là phụ nữ, trẻ em và người già không thể chiến đấu, số còn lại vốn đã quen với công việc săn bắt thú nhỏ, hái lượm nên cũng không thể nào ra trận như một người lính thực thụ. Điều đó khiến cho những người có thể tham chiến, với số lượng chưa đến một trăm, cảm thấy hết hi vọng.
“Mau làm theo lời ông ấy, không được để con quái vật nào bắt được dân làng.”
Utsuro cũng hiểu tình thế nghiệt ngã mà họ đang lâm vào. Sự kiện đau lòng của hai đứa bé Foxkin trước đây như một minh chứng cho sự yếu đuối về lực lượng chiến binh trong làng. Với Yêu Tinh đã thê thảm như thế thì lũ đầu trâu mặt ngựa này sẽ còn khủng khiếp thế nào nữa đây, người đàn ông ấy tự hỏi.
Tuy nhiên, dân làng Miran trong chuyến di cư này không hề đơn độc. Phía sau họ là Mando, một Chiêu Hồn Sư, kẻ có thể một mình đương đầu với cả trăm, cả nghìn địch thủ. Ông đã bắt đầu niệm thuật triệu hồi trong một sự tự tin tuyệt đối. Khả năng của ông cùng nguồn ma lực đã trở nên vô tận sau khi chết và được hồi sinh bởi Deadman’s Call, mang lại một lợi thế to lớn.
Sau khi hoàn thành thuật chú, không phải lác đác vài chục, mà là đến cả nghìn Quỷ Cốt đã đứng giữa lũ Orc và dân làng.
“Chúng chưa chắc đã ngăn được lũ quái vật này đâu, nhưng chắc chắn sẽ câu giờ được cho chúng ta. Trong khi chiến đấu, ta sẽ mở đường cho các nhân thú thoát khỏi vòng vây.”
Số lượng tuy được bù đắp, song Mando vẫn không bao giờ tự mãn và chủ quan. Với những lời ấy, Utsuro gật đầu đồng tình rồi phi ngựa lên phía trước.
“Ta sẽ làm hết sức để giúp mọi người, nên cô hãy nghỉ ngơi đi Masumi. Cô không còn sức chiến đấu đâu.”
“Nhưng mà…”
Chưa kịp nói, bản thân người phụ nữ Tiên Tộc chợt cảm thấy chóng mặt. Có lẽ hậu quả của việc liên tục chịu đựng cơn mệt mỏi đã ập tới. Nó khiến cô buông con dao găm xuống trong cảnh bất lực.
“Hãy nghe lời ông ấy đi, Mashu.”
Cả già làng cũng đồng tình với Mando, khiến Masumi chỉ còn biết ngồi xuống xe ngựa kéo.
Tuy nhiên, trong giây phút ấy, khi mà mọi người quá tập trung vào lũ Orc, một điều không ngờ đã xảy ra.
Phía sau chiếc xe kéo, những vật dụng đã hiện ra. Từ những tư trang lẫn những lọ gia vị được đặt rất cẩn thận bên cạnh một túi xách cũ, chúng đều bắt lấy ánh lửa, như thể đã quá lâu không được tiếp xúc với nguồn sáng.
“Ah…”
Mando là người đầu tiên nhận ra khi quay đầu lại, rồi tiếp đến là Masumi và già làng Shizu. Họ ngỡ ngàng trong giây lát, để rồi lặng im không thốt nên lời.
Phủ tấm chăn mỏng trên người, Kurogane Kihaza đang nằm, nhắm mắt không cử động. Mái tóc bạch kim cùng sự hốc hác của cậu khiến ba người họ không khỏi chua ngoa đau xót. Nhưng tệ hơn cả chuyện ấy, họ phải chứng kiến hai hàng lệ đang từng giọt nhỏ xuống của cô bé Fujinomiya Yuuri. Căn bệnh bẩm sinh khiến cô không thể òa lên, mà chỉ có thể gặng ra từng âm thanh gãy đứt không thành tiếng, khổ sở vô cùng. Cô ngồi bên cạnh Kihaza, đôi tay nắm chặt lại, lòng như đang phẫn nộ vì không thể chấp nhận được điều gì đó.
“Yuuri…”
Chỉ có thể gọi tên cô bé là nỗ lực tốt nhất của Mando vào lúc này. Nước mắt của cô khiến chiến khí của ông tan biến ngay trong khi nguy hiểm cận kề. Và đôi mắt ngấn nước ấy bắt đầu nhìn chung quanh, nắm bắt thế cục nguy nan mà dân làng Miran đang lâm vào. Trong cơn nấc ấy, một âm thanh vang lên nơi tiềm thức của từng người, như đem lại một hi vọng sáng ngời giữa màn đêm tăm tối.
“Con sẽ không để cho mọi chuyện anh ấy làm trở nên vô nghĩa đâu.”
Không ai rõ lời ấy là dành cho ai, kể cả Mando. Ông chỉ nhìn thấy cô bé Yuuri từ từ trùm lấy mình một nguồn ma lực khổng lồ một cách âm thầm. Mặt đất rung chuyển mỗi lúc một dữ dội, khiến cây cối không ngừng xao động dưới nguồn năng lượng ấy, khiến không chỉ lũ Orc mà cả các nhân thú đều thất kinh.
“Chú có thể dẹp cái thứ đáng ghét kia đi được không, chú Mando?”
Hẳn là Yuuri đang nói đến lũ quỷ cốt, Mando đoán. Ông vừa thu hồi chúng, vừa cố gắng tìm ra một lý do để cô bé ghét thứ sinh vật ấy.
Trong khi đó, lũ Orc chợt cảm thấy lạnh xương sống. Mặt đất đã ngưng rung và cây cối chợt im bặt, như một hồi nghỉ trước một đợt tấn công bất ngờ. Chúng vô thức tự giãn vòng vây, đề cao cảnh giác.
Nhưng đáng tiếc thay, với đối thủ của chúng, mọi sự chuẩn bị và cảnh giác đều là vô nghĩa. Fujinomiya Yuuri, trên danh nghĩa, là học trò của Kurogane Kihaza, người đã vượt qua cái danh hiệu Vua Ma Thuật từ rất lâu. Có lẽ không phải nói quá, nhưng bản thân cô bé bây giờ đã thấu hiểu toàn bộ những gì cậu thanh niên ấy truyền đạt, đồng nghĩa với một sự thật, một lợi thế gần như khiến bất cứ ai đương đầu với cô đều phải kinh sợ.
Phải, lũ Orc đang phải đối mặt với một Vua Ma Thuật thứ hai trong đoàn di cư.
Cô bé Yuuri vẫn để cho nước mắt lăn dài, biến nó thành một động lực vô hình mà đưa tay lên, xoay nhẹ giữa không trung. Ngay lập tức, toàn bộ thảm thực vật, từ những ngọn cỏ non cho đến những cây đã vươn cao để đón ánh nắng phản ứng mãnh liệt. Những cành cây như đang sống dậy, hóa thành những cánh tay cứng cáp, từ trên cao phi xuống, quật tan tác hàng phòng tuyến đầu tiên của lũ Orc. Con thì bị đánh ngã, con thì bị cành cây đâm thê đâm thảm, rú lên những tiếng sợ hãi rồi gục chết.
Cảnh tượng ấy, đối với các nhân thú, quả thực là một phép màu. Có lẽ họ đã mong đợi ngày Công Chúa của họ được tìm thấy và đánh thức được sức mạnh trong truyền thuyết. Cô bé Yuuri của hiện tại đang khiến những trái tim ấy tin rằng họ đã không chờ đợi uổng phí.
Bọn Orc cố gắng lùi lại để phòng thủ, song chúng đang ở giữa một rừng cây rậm rạp. Đâu đâu cũng là tử địa, và Yuuri đã thể hiện rõ quyết tâm của mình trong đôi mắt cô. Chỉ với một cái siết chặt tay, từng ngọn cỏ bỗng mọc dài ra như những thanh kiếm. Như tiếng gió thủ thỉ vào tai, chúng biến cả một vùng đất thành một tấm lưới của những đường chém, khiến bọn quái vật đồng loạt đổ rạp xuống.
“Yuuri!! Ngừng lại đi!!”
Nhận thấy sự bành trướng quá mức của ma lực bên trong cô bé, Mando gào lên. Nhưng ông nhanh chóng cảm thấy mình không cần phải làm vậy, bởi ngay sau đó, tay Yuuri buông thõng. Gương mặt cô đã có thần thái hơn, nhưng nó lại nhuộm một cảm giác tan vỡ và đau đớn vượt quá giới hạn.
“Con xin lỗi…”
Đó không phải là lời xin lỗi gửi đến mọi người vì sự mất kiểm soát sức mạnh. Yuuri không giết lũ Orc chỉ vì đơn thuần là muốn bảo vệ dân làng. Vẻ thất thần cùng hai hàng nước mắt tưởng chừng như đã ngưng của cô thực giống như một lời thú nhận rằng hành động vừa rồi chính là lạm sát.
Mando, người sớm hiểu ý nghĩa ấy, liền đi ra phía sau xe kéo rồi tháo giày, trèo lên và đến bên cô bé. Ông cố lướt mắt nhìn trộm lấy Kihaza đang nằm dưới lớp chăn. Ở gần như thế, ông mới nhận thấy da cậu trắng bệch như thế nào. Môi gần như thâm tím lại như người chết, và hơi thở vô cùng yếu ớt khiến lồng ngực phập phồng rất khẽ. Nếu không ngồi gần như lúc này, có lẽ ai cũng nghĩ cậu đã chết.
Vậy thì từ lúc kết giới mở được lập ra cho đến khi nó biến mất, chuyện gì đã xảy ra?
“Con không làm được…”
Âm thanh ấy vang lên trong tiềm thức của Mando mà không giấu nổi sự bất lực. Cô bé Yuuri chỉ dám nhìn vào người thầy của mình. Dường như cô sợ, sợ phải chạm vào cơ thể Kihaza.
“Người chết không biết kể chuyện đâu… Ra là vậy…”
Trong một phút giây trầm ngâm, người đàn ông ấy nghĩ lại về lời cuối cùng của chàng trai. Ông khẽ chạm vào người cậu, nhưng nó chỉ là cảm giác lạnh toát. Người chết thì không thể cảm nhận được hơi ấm, nhưng chính bản thân Mando lúc này đây dám khẳng định, Kihaza đang nằm trên chiếc xe này thực sự đã chìm vào giấc ngủ thiên thu của một kẻ đã chết.
“Ma lực của con, mọi thứ con có thể làm để mang anh ấy lại… đều không có tác dụng… Con không làm anh ấy tỉnh lại được, chú ạ. Con không làm được.”
Những tiếng nấc theo sau lời nói, nước mắt rơi mỗi lúc mỗi nhanh trên gương mặt cô bé khiến Mando dù đã chết rồi cũng phải cảm thấy đau đớn. Kết cục của ngày hôm nay cũng một phần đến từ cuộc nói chuyện nho nhỏ giữa ông và Kihaza. Có lẽ nếu hôm ấy ông không cầu xin thì chưa chắc gì cậu đã thực hiện kế hoạch điên rồ này.
Với Mando, những gì đã xảy ra cùng với cảm giác tội lỗi khiến ông không còn đủ tự tin để cất lời. Ông thậm chí còn sợ rằng mình không thể nào tìm được một lý do để ngước mặt lên nhìn cô bé đang giàn giụa nước mắt kia.
“Con gái, không sao đâu. Con đã làm tất cả những gì con có thể làm rồi.”
Giọng nói của người thứ ba khiến cô bé Yuuri chợt giật mình quay đầu lại. Masumi đã trèo lên xe từ lúc nào, và cô đang ây yếm chải tay mình vào mái tóc bạch kim của cậu con trai.
Cùng là một sự tan vỡ trong đôi mắt, lệ tuôn trào. Tay Masumi dần dần không còn muốn chải vì cảm giác lạnh lẽo nó nhận được. Cô lặng lẽ bò đến chỗ Yuuri, rồi khẽ dắt cô bé vào lòng mình.
“Cảm ơn con, Fujinomiya Yuuri. Cảm ơn con.”
Cô cứ lặp lại lời cảm ơn ấy, tay không muốn ngưng xoa lấy đầu cô bé Yuuri. Nhưng trong tâm trí, những câu xin lỗi mà cô bé niệm liền mạch vẫn đang dày xé tâm can con tim.
Nhìn cảnh tượng đau lòng ấy, Mando chỉ biết ngước mặt lên trời tự hỏi.
‘Bao giờ thì nhóc mới có thể tỉnh lại đây, Kihaza? Đừng làm tan nát cõi lòng của mẹ cậu, và cũng đừng phải khiến cho người cậu yêu thương phải khóc như vậy… Bao giờ thì nó mới kết thúc đây hả, nhóc Kihaza?’
Ông thực muốn cậu thanh niên ấy nghe được mà bật dậy, đặt dấu chấm hết cho mối nghi vấn này.
Nhưng làm thế nào để một kẻ đã chìm vào giấc ngủ thiên thu có thể tỉnh lại?
Đó là câu hỏi không bao giờ có hồi kết.
Song, một dấu phẩy nào đó, đến để ngắt một quãng thật dài cho sự đau đớn tột cùng này cũng được, Mando mong mỏi. Ông chờ đợi nó, chờ đợi sự mệt mỏi, chờ cho cảm giác thèm muốn nghỉ ngơi ấy tìm đến, mang một Masumi đã không còn sức chống lại cơn buồn ngủ và một Yuuri vốn đã kiệt quệ từ lâu chìm vào giấc ngủ.
Một quãng nghỉ dài bắt đầu bằng việc đặt lưng người mẹ khốn khổ ấy, đôi tay vẫn ôm lấy cô bé lên thành xe.
Phần 2
Đây là ngày thứ năm thị trấn Aqua chìm trong bạo loạn. Sau khi có người phát hiện ra tàn tích thảm khốc của cuộc chiến đẫm máu tại làng Miran cùng xác chết của đúng hai nghìn người, toàn bộ dân chúng thị trấn bị nhấn chìm trong sự đau đớn và phẫn nộ.
Tuy lấy lại được phần lương thực từ tàn dư của cuộc chiến, nhưng không ai không cảm thấy phẫn uất vì cha, chồng, anh, em của họ chết một cách quá thê thảm như thế.
Bốn ngày qua, người dân không ngừng tấn công Giáo Đường, nơi từng là cái nôi đức tin của chính họ. Với lực lượng quá ít ỏi còn lại, cùng với sự thiếu vắng của một kẻ lãnh đạo, các Mục Sư và lính gác chỉ còn biết cố thủ bên trong tòa nhà nay đã tan hoang ấy.
Có lẽ ngày hôm nay sẽ là ngày cuối cùng Giáo Hội Aqua tồn tại ở thị trấn này, trong lòng những kẻ trung thành còn lại nghĩ. Chúng không thể đương đầu với hàng nghìn người dân đang phẫn nộ ở bên ngoài, và cánh cổng Giáo Đường sắp bị phá đổ.
Tuy nhiên, khi mà từng tên Mục Sư đã bắt đầu cầu nguyện, và những tên lính đều buông giáo bỏ cuộc thì từ cổng Nam thị trấn bỗng xảy ra náo loạn. Người dân từ khu vực ấy bỗng chạy ngược về trung tâm, hớt hải và sợ hãi. Chuyện này khiến ai nấy đều cảm thấy bất ngờ.
Là quân Ishens, họ kể lại trong từng hơi thở hổn hển. Đoàn quân hùng hậu của Vương Quốc Ishens xa xôi đã thực sự đến thị trấn Aqua bé nhỏ này. Theo những người vừa xô về khu trung tâm này, mười đạo quân bộ binh đã đứng ở bên ngoài lối vào thị trấn, thêm một vạn kỵ binh dẫn đầu cùng một vạn phù thủy, mục sư yểm trợ phía sau dàn thành một đội hình đủ hùng mạnh để đe dọa an nguy của cả một thành trì lớn của vương chúa.
Trong khi ấy, tại nơi mà quân Ishens đang tạm dừng chân, hai con ngựa đầu tiên từ từ tiến về phía cổng vào vốn đã bị người dân đóng chặt lại. Trên hai con ngựa ấy là hai người chàng thanh niên còn rất trẻ phủ kín áo giáp trên cơ thể. Vừa cầm cương ngựa, hai người vừa nói qua lại với nhau dưới lớp mặt bảo vệ của chiếc mũ sắt. Họ nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ của vùng Đông Nam vịnh nước Sreomm của lục địa Nomeon. Đối với người đến từ thực giới, ngôn ngữ ấy còn có một tên gọi khác, Việt Ngữ.
“Cậu nghĩ thị trấn này sẽ dễ dàng quy thuận Ishens chúng ta chứ?”
“Cuộc chiến với Kurogane Kihaza đã khiến cho số lượng đàn ông trong thị trấn này vơi đi kha khá rồi. Giáo Hội Aqua cũng không còn ai cai trị nữa nên cậu cứ yên tâm đi, Nguyễn Minh Đức. Thị trấn này đã là của chúng ta ngay từ đầu.”
Kẻ đáp lại câu hỏi có một chất giọng quen thuộc vô cùng. Hắn khiến người khác, đặc biệt là người dân thị trấn, phải hồi tưởng lại về một kẻ miệng mồm khí thế, tự mình tiếp quản Giáo Hội rồi chiêu mộ lính mà tổ chức đợt tấn công đuổi theo đoàn nhân thú di cư của làng Miran. Hắn cũng biết về Kurogane Kihaza, cả về cuộc chiến đẫm máu diễn ra giữa đạo quân của Giáo Hội và Chiêu Hồn Sư sở hữu sức mạnh của Vua Ma Thuật.
Phải, chính là hắn, Kaneshiro Mitsuki. Hắn đã có thể quay lại Yggdrasil này với một diện mạo hoàn toàn mới. Ba ngày trừng phạt của Dues ex Machina chỉ là khoảng thời gian hắn chuẩn bị cho những bước đi tiếp theo trong cuộc chiến tranh lâu dài với Nhân Thú, bắt đầu bằng việc trở thành một con người. Hắn chọn nơi khởi đầu chính là nơi mà Ishens đang hành quân, nơi mà kẻ song hành với hắn lúc này đợi tin tức.
“Thế thì tốt quá. Đúng là nhờ có Kurogane Kihaza, chúng ta mới có thể chiếm nơi này mà không cần phải đánh đấm.”
Minh Đức bật cười, khiến một âm thanh hết sức kỳ lạ khi ra khỏi mũ. Cậu ta cảm thấy mình không cần phải đội chiếc mũ cồng kềnh này trên đầu thêm lâu hơn, nên ngay lập tức dùng tay cởi xuống, để lộ một gương mặt dài, không quá non nớt như Mitsuki ở tuổi mười sáu. Ở tuổi đôi mươi của cậu ta, sự tự tin cùng một chút phong vị trưởng thành là điểm nổi bật mà chiếc mũ sắt kia giấu đi, và trong đôi mắt tỏ ra mình là kẻ có tố chất hơn người, Đức luôn đưa sự quyết đoán vào từng ánh nhìn. Một chàng thanh niên gốc Việt tương đối kinh điển, ai cũng sẽ nghĩ vậy nếu gặp cậu ta lần đầu tiên.
Sau một lúc xem xét tình hình, cậu thanh niên người Việt quay đầu ra hiệu cho đoàn quân. Từng đạo quân kỵ binh bắt đầu di chuyển lên vị trí tiên phong, đồng thời hai trăm trong số đó tiếp tục theo chân hai vị tướng lĩnh vào thị trấn.
“Cậu có chắc là đi vào lộ liễu như thế này ổn thật không đấy, Mitsuki?”
Xem ra Đức là một tay cẩn thận hơn hẳn. Cậu ta vẫn không khỏi hoài nghi về sự an toàn của chính mình, như thể một vị tướng còn quá trẻ vẫn chưa có đủ bản lĩnh trước chiến trường.
Câu hỏi của cậu ta khiến Mitsuki phì cười. Hắn chỉ tay về phía Giáo Đường xa xa ở khu trung tâm cách đó chưa tới ba Nale rồi bảo:
“Cậu nên thôi hỏi như vậy đi. Giáo Hội sắp vào tay cậu rồi đấy.”
“Tôi không có lo lắng, cậu hiểu chứ? Tôi không muốn có đổ máu thôi.”
Câu trả lời ấy dẹp tan mối nghi vấn của Mitsuki trong toàn bộ quãng thời gian quen biết anh thanh niên người Việt này. Nguyễn Minh Đức đang tỏ ra mình là một kẻ cẩn thận không thừa, không phải một kẻ thiếu thốn bản lĩnh. Đôi mắt cậu ta bắt đầu tỏa ra chút sát khí, khiến những người dân đang phải dạt ra hai bên đường thầm lạnh xương sống theo từng bước chân ngựa.
Tuy nhiên, khi đến được Giáo Đường, nhóm quân của hai người phát hiện ra nơi này đang bị bao vây. Dân chúng đang tỏ ra rất phẫn nộ, đồng thời thể hiện rõ trên gương mặt rằng những kẻ đến từ nơi xa xôi kia đừng hòng chiếm được Giáo Đường của họ.
“Ừ… không phải đổ máu lẫn tốn sức cơ đấy… Cậu đúng là chỉ giỏi nói bằng mồm, Mitsuki ạ.”
Cậu ta nheo mắt nhìn tên người Nhật bên cạnh mình, rồi thở dài mà rút thanh trường kiếm được giắt cẩn thận bên hông ra. Một lưỡi kiếm sắc bén lạ thường phản chiếu lại ánh nắng dưới một góc độ hoàn toàn khác biệt với sắt thép thông thường. Cũng vì thế mà màu sắc của nó không phải là màu xám đục đặc trưng của thép, mà là một màu xám ánh kim trắng, trông rất đẹp mắt.
Đức chĩa thanh kiếm ấy về phía người dân rồi dõng dạc tuyên bố:
“Hỡi người dân thị trấn Aqua, xin hãy tránh đường cho liên quân giữa Giáo Hội và Ishens đi qua! Chúng tôi đã đến đây để giúp đỡ mọi người!”
Người dân Aqua bắt đầu ngơ ngác, vì họ không hiểu ngôn ngữ mà Đức sử dụng. Nhưng cậu ta cũng không phải tự dịch lại sang tiếng Nhật, bởi công việc ấy là của Mitsuki. Hắn thuật lại từng từ mà Đức nói, đanh thép y hệt như cậu ta vậy.
Nghe hết lời thuật lại, với nội dung không chỉ dừng lại ở sự có mặt kịp thời để hỗ trợ mà còn có cả mục đích chiến tranh, dân chúng bắt đầu hoang mang. Họ hết nhìn nhau rồi nhìn hai trăm kỵ binh giáp kiếm đầy đủ phía sau, cuối cùng gật đầu quyết định nhường đường cho quân Ishens.
Tuy nhiên, chỉ có mình Đức biết thứ thực sự đã thuyết phục người dân. Đó chính là sát khí trong thanh kiếm trên tay cậu ta, song hành cùng với một cảm giác gì đó rất đáng sợ. Khi tra kiếm vào bao, dân chúng bắt đầu dạt về phía hai bên đường để người và ngựa bắt đầu tiến tới trước. Nhưng họ cũng sớm phải dừng lại bởi cánh cổng đã bị đóng chặt và chặn lại từ bên kia.
“Chúng ta nên khuyên họ đầu hàng, phải không?” – Mitsuki nói trong lúc xuống ngựa.
“Ai bảo với cậu là chúng ta phải tốn công khuyên nhủ chứ? Đây là thế giới nào mà cậu lại phải thừa nước bọt mà đi khuyên với nhủ người khác đầu hàng? Với cả, dân chúng ở thị trấn này cũng nên biết chút ít về người sẽ tiếp quản cái Giáo Đường tồi tàn đây chứ, tôi nói có đúng không nào, Mitsuki?”
Minh Đức cũng nhảy xuống ngựa. Cậu ta vừa bước chân tới trước cổng vào Giáo Đường, vừa đáp lại lời của tên phụ tá. Cùng lúc, những kỵ binh bỗng cho ngựa lui ba bước, khiến Mitsuki hơi bất ngờ. Tướng lĩnh của họ chưa ra lệnh mà, cậu ta nghĩ, rồi lại quay sang nhìn Đức.
“Cậu tính làm gì vậy hả?”
“Cậu sẽ biết ngay bây giờ thôi.”
Nói xong, Đức bước chân trái lên phía trước làm trụ, người hơi khom xuống lấy thế. Tay phải của cậu ta giơ lên ngang vai, vừa tụ lực vừa thu về sau. Một hơi thở dài, theo sau là một lực hút mạnh mẽ của hai lá phổi, kéo một lượng lớn không khí vào trong.
“Tôi hỏi này, Mitsuki.”
Đột nhiên, Minh Đức cất tiếng hỏi.
“Một nơi tồi tàn như thế này có nên đập hết đi rồi xây lại không?”
Có lẽ hắn chẳng cần phải trả lời nữa, bởi khi dứt câu, Đức đã vung tay. Một cú đấm thẳng đơn giản, nhưng mang đầy sự chết chóc. Âm thanh khi năm ngón tay cậu ta chạm vào cửa như một tiếng nổ lớn xé rách không khí, và uy lực kinh hồn của nó ngay lập tức phá nát bản lề cửa, ném hai cánh cổng cùng mọi thứ che chắn phía sau vào thẳng trong sảnh Giáo Đường. Chúng chỉ ngừng lại hẳn khi đã đâm vào tường và khiến cho cả tòa nhà rung chuyển dữ dội, tưởng chừng như sắp sập xuống.
Năm vạn quân là một con số không hề nhỏ đối với một thị trấn như Aqua. Đây đã là ngày thứ ba kể từ khi họ đặt chân tới nơi này, và các trại quân được dựng ở ngoài thị trấn dần dần đi vào ổn định.
Tuy nhiên, dân chúng và quân binh vẫn chưa thể đi vào nếp sống bình thường. Khi Aqua thay chủ, khi mà lá cờ của Giáo Hội bị gỡ xuống để cờ của một vương quốc xa xôi được cắm lên, có không ít người thầm nghĩ: nơi họ sống đã trở thành đất của kẻ khác. Cách duy nhất để thể hiện suy nghĩ ấy trong tình thế vừa yếu về lực lẫn về thế là âm thầm tỏ ra bất bình.
Một cộng đồng muốn đòi lấy một chút gì đó cho mình khi nơi họ sống đã bị những kẻ lạ lẫm đến từ phía Nam xa xôi chiếm lấy thì được gì? Những bất bình âm thầm lặng lẽ ấy sẽ được đáp trả như thế nào?
Nếu lòng vòng khắp thị trấn, gặng hỏi được mười người câu hỏi ấy, thì cả thảy đều sẽ đáp lại rất ngắn gọn.
Bạo lực.
Rào cản khổng lồ về ngôn ngữ trong đại bộ phận quân binh Ishens khiến cho họ không thể nào có được sự thỏa mãn, thậm chí đơn giản là những nhu cầu mà một kẻ sống trong thời chiến phải có.
Và chúng là gì? Rượu, thức ăn, và những thú vui tiêu khiển.
Thị trấn sầm uất này lúc nào cũng thừa rượu, người dân nào sinh ra và lớn lên tại đây, ai cũng công nhận. Từ rượu nếp ủ hạng bét đắng ngắt cho đến những thứ rượu xa xỉ được ủ cùng mật ong, chỉ cần mở miệng hỏi thì chắc chắn sẽ có người bán.
Nhưng cách nhanh nhất để có rượu khi không thể giao tiếp và sở hữu trong tay lợi thế của những kẻ đến để chiếm đoạt là gì?
Cướp bóc bằng bạo lực. Những thương nhân buôn rượu và những chủ quán ăn, nhà nghỉ trở thành nạn nhân của chúng. Quân binh ngang nhiên phá cửa vào quán chỉ để lấy những vo rượu ngon. Chúng sẵn sàng đàn áp mọi sự chống trả của người dân, thậm chí thẳng tay giết họ nếu cơn thiếu thốn hơi men kia lên đến đỉnh điểm.
Thực phẩm thì không hề thiếu. Vấn đề thực sự đơn giản chỉ là lương khô chẳng thể thỏa mãn vị giác con người. Qua hơn bốn mươi ngày vừa chiến đấu vừa hành quân, những gì bọn lính đòi hỏi đã vượt quá khả năng của hàng tá xe quân lương. Thị trấn này, thật may thay, lại có quá đầy đủ lương thực cho bọn chúng. Ba ngày liền người dân bất lực nhìn thực phẩm của mình ra đi cùng với kẻ không phải anh em, không phải địa chủ, không phải lãnh chúa.
Cái kết của những cuộc xâm lăng như thế này, dù có đổ máu hay không, đều đi cùng với chiến lợi phẩm to lớn. Và thứ quý giá nhất vẫn là con người, mà đúng hơn đối với những kẻ chiến thắng thì họ là nô lệ. Cảm giác của đàn ông, từ đứa con nít lên năm cho đến người đầu bạc răng long, đều phảng phất đâu đó sự nhục nhã.
Nhưng chỉ nhục trong tâm thì họ chẳng bằng một phần nhỏ cảm giác của phụ nữ. Bọn lính vẫn còn thèm thuồng được tiêu khiển, và một thị trấn sầm uất như Aqua quả thực không thiếu cách để thỏa mãn nhu cầu ấy. Đáng tiếc là bọn chúng không thông minh, và cũng chẳng nói chung một ngôn ngữ với người dân, khiến sự lựa chọn cũng dần teo tóp lại chỉ còn có một, bắt dân nữ. Trong thâm tâm từng tên lính Ishens, thị trấn đã là của chúng, từ đất cho tới con người, nên muốn bắt những cô gái trẻ đẹp về trại để thỏa mãn thú vui tiêu khiển là điều chẳng ai cấm, chẳng kẻ nào phản đối. Cái cảnh ngang nhiên lôi những cô gái đi, thậm chí vác lên như một món đồ chơi rồi cứ thế long nhong bước ra khỏi nhà cùng những gương mặt đồi bại đã hằn in vào trong trái tim rỉ máu của những bậc cha mẹ vô vọng hết nhìn lưỡi kiếm của bọn lính đang kề cổ rồi lại nhìn đứa con gái họ yêu quý đang ở trên vai bọn chúng. Chống trả chỉ khiến cho máu đổ xuống, người con vẫn cứ ra đi và vĩnh viễn không thể quay về.
Những tai ương ập đến như một cơn ác mộng tưởng chừng như mãi mãi không thể mơ thấy ở thị trấn Aqua vừa ập xuống. Ba ngày đối với họ là quá đủ cho một giấc ngủ, nhưng chẳng ai có thể mở mắt tỉnh giấc.
“Nhìn cho kỹ đi, Kaneshiro. Cậu vừa mới được chứng kiến hiện thực đấy.”
Minh Đức cười vừa đủ lớn để âm lọt vào tai Mitsuki.
Cậu ta bước đi chậm rãi, ngắm nhìn phong cảnh điêu tàn của một thị trấn rồi lại mỉm cười. Thường phục của một chiến binh Ishens trông chẳng khác nào một tay phiêu lưu giả nên cả hai người mới có thể bình tâm dạo quanh những góc nhỏ, thu vào tầm mắt vô vàn sự uất ức của dân chúng.
“Rốt cuộc thì khi nào cậu mới chịu lên đường đây? Bọn chúng đã đi được hơn mười ngày rồi. Với sự trợ giúp của con bé đó, bọn Nhân Thú chắc chắn sẽ tới được Shinkirou trong vòng một tháng thôi đấy.”
Xem ra những lời Đức nói chẳng hề chạm được đến lòng kẻ đang song song bước đi với mình. Trong đôi mắt của cậu ta đã hiện lên quá rõ một sự thán phục, tâm thầm trầm trồ: quả đúng là kẻ dám lấy hai nghìn mạng người ra làm chốt thí cho Kurogane Kihaza. Vừa giữ ánh mắt đó, cậu ta vừa đáp.
“Không cần phải vội vã. Cuộc chiến này rồi cũng sẽ đến. Bọn ta lần này lặn lội đến Astrile xa xôi đây đâu phải chỉ để thanh toán lũ Nhân Thú.”
Dã tâm của một tên chỉ huy năm vạn người lúc nào cũng lớn như đạo quân của hắn. Đức mỉm cười, chân vừa đi, miệng vừa giải thích.
“Cuộc chiến với Nhân Thú chỉ là một phần lớn mà thôi. Cái mà Ishens chúng ta nhắm tới còn lớn hơn thế nhiều. Cậu biết sử sách của thế giới này ghi chép gì về dãy Wrym không? Là nơi mà Hỏa Long chọn làm chỗ dừng chân sau một thời tung hoành trên bầu trời khi thời đại của loài rồng trên đất Midgard kết thúc.”
Thời đại của loài rồng, một cụm từ không chỉ người ở Yggdrasil mà thậm chí cả những người đến từ thế giới bên ngoài không ai không biết. Nhưng nhắc đến nó thì ai cũng phải nuốt ít nhất hai hơi nước bọt, xương sống chợt ớn lạnh.
Đó là chuyện của năm bảy nghìn năm trước, của một thời kỳ con người ăn phàm uống tục, sống chỉ để ăn và trốn chạy khỏi loài rồng, sinh vật đáng sợ nhất cõi trần gian này. Lửa là hơi thở, sức mạnh nguyên tố của chúng cũng đã đạt tới ngưỡng vô biên, rồng chưa từng một lần thôi kiêu ngạo về dòng máu thượng đẳng vượt trội. Nhưng trớ trêu thay, mỗi con rồng lại sở hữu một nguyên tố khác nhau, và chúng quá ngạo nghễ để cho phép những kẻ đồng loại ấy tồn tại. Cuộc chiến giữa những con rồng đã nổ ra, nhuộm cả Midgard trong cơn ác mộng chưa từng có.
Nhưng cuộc chiến ấy đã kết thúc. Rốt cục thì chẳng có kẻ chiến thắng. Kẻ mạnh dù có đáng sợ đến đâu thì vẫn luôn có một sinh vật bài trùng. Mỗi con rồng mang trên mình vô vàn vết thương, và một số đã phải kết thúc cái danh “vô địch” ngay trên chiến trường. Những con còn lại chỉ còn lựa chọn duy nhất là tìm lấy một nơi đắc địa để chìm vào giấc ngủ vĩnh hằng.
“Nếu như những gì người xưa kể lại là đúng thì rồi một ngày nào đó, lũ rồng sẽ thức dậy, và một lần nữa quyết tử với nhau chỉ để tìm ra kẻ mạnh nhất, Mitsuki ạ. Tôi nghĩ cũng đã tới lúc phải gọi chúng dậy rồi.”
Một ý tưởng điên rồ, hết sức điên rồ, thâm tâm Mitsuki gào lên. Hắn chưa đến Yggdrasil này được lâu nhưng đã chứng kiến bao điều kỳ diệu và kinh khủng. Đừng nói đến lũ rồng, chỉ cần nhắc đến Vua Ma Thuật hay Chiêu Hồn Sư, hắn cũng đã đủ khiếp đảm.
Nhìn sự thay đổi trên gương mặt hắn, Đức hài lòng mỉm cười. Cậu ta bước đi nhưng tay trái vẫn luôn nâng hờ vỏ bao kiếm, dường như cảnh giác không hề suy giảm. Chẳng ít những đôi mắt oán hận đang dõi theo bước chân của cả hai, và Đức dám chắc mẩm là số lượng người muốn cái cổ của cậu ta treo lủng lẳng trước Giáo Đường đã vượt quá con số hàng trăm rồi.
“Chúng ta có nên đi nhanh lên không đây?”
Mitsuki cảm thấy khó chịu với những ánh mắt ấy. Hắn hỏi mà như thúc Đức đi nhanh lên, nhưng tâm thế của tên chỉ huy kia rõ ràng là vẫn thư thái.
“Gì chứ? Cậu sợ sao?”
“Không, tôi không muốn có đổ máu ở chỗ này. Chưa đến lúc phải ra tay.”
Ra là thế sao, Đức thầm ồ lên trong lòng. Xem ra sát ý của cậu ta chẳng bằng một góc của Mitsuki bây giờ. Một kẻ có lòng đố kỵ cao như hắn thì nào biết giữ mình.
Chỉ có điều.
“Cậu chỉ giỏi mỗi khoản hấp tấp. Để hai nghìn người chết như thế dù sao cũng là lỗi của cậu cả đấy. Nếu muốn lần tới có thể thắng được cả lũ Nhân Thú và tên Chiêu Hồn Sư đó, tốt hơn hết là cậu nên học cách bình tĩnh đi.”
Miệng nói một, nhưng lòng thì rõ nhột nhạo. Quả thực là Minh Đức này khi nói vẫn chẳng giấu được một cái giật mi rất vô duyên, như thể cậu ta bị ảnh hưởng bởi chính lời của mình.
“Xem tên đầu sỏ nói gì kìa… Tôi và cậu đều có chung một kẻ thù là Kurogane Kihaza. Cậu là tên mời tôi vào cái kế hoạch vớ vẩn đấy, nhớ không?”
“Sao lại không chứ! Đến giờ nó vẫn trôi chảy đấy, Mitsuki. Dù sao thì tôi cũng chẳng quan tâm mấy đến bọn Nhân Thú. Cuộc chiến lần này tôi chỉ tập trung vào Kurogane Kihaza, nên từ bây giờ, tôi phải giúp cậu học cách bình tĩnh mới được. Người bình tĩnh lúc cần thì ở xa quá, nên tôi phải chuẩn bị trước cho cậu.”
Dứt lời, Đức bỗng nhiên quay đầu, đi ngược về phía khu Trung Tâm thị trấn. Trong đôi mắt bình thản của cậu ta, một chút sát khí vô tình tìm được lối thoát ra ngoài. Tức thì, những người dân sợ hãi không dám nhìn vào mặt Đức, như thể họ vừa chứng kiến một thứ gì đó rất kinh khủng. Họ bất giác lùi về hai bên đường trong vô thức, không một ai dám thể hiện sự bất bình thêm một giây một khắc nào nữa, vì kẻ ở trước mặt họ và thanh kiếm của hắn như đang thủ thỉ.
Muốn chết thì cứ xông lên đi.
“Chậc… lại để hắn vênh váo nữa rồi…”
Mitsuki tặc lưỡi, chân cũng đổi hướng để đi theo Đức. Hắn vừa đi, vừa nhìn xuống vật trong tay mình rồi mỉm cười.
Trong tay hắn là cặp kodachi đã gần như lấy mạng Kurogane Kihaza, thứ mà hắn luôn nghi ngờ rằng tên Chiêu Hồn Sư ấy sẽ không né tránh, dù có là nhát đâm trực diện. Chừng nào nghi vấn này vẫn còn nằm trong tay Mitsuki thì tay Đức kia sẽ còn hoang tưởng rằng cậu ta mới là người có đủ khả năng giết Kihaza.
“Cứ chờ xem… Cậu với tôi, ai sẽ là kẻ giết tên Chiêu Hồn Sư đó…”
Phần 3
Ngày thứ mười bảy đặt dấu chấm hết cho con đường men theo rừng rậm. Từ thời điểm này trở đi, đoàn di cư làng Miran sẽ đối mặt với đồi núi hiểm trở của dãy Wrym.
“Không xong rồi…”
Đứng từ cuối đoàn và quan sát, Mando thì thầm với già làng Shizu, người ngồi cùng với ông trên chiếc xe ngựa kéo.
“Cứ như thế này thì mọi người sẽ không thể đến được Shinkirou mất.”
Đây là đánh giá tổng quan chứ không riêng gì vấn đề địa hình hiểm trở trước mắt. Các Nhân Thú đã rất kiên cường chống chọi lại cái đói, sự nguy hiểm của thú dữ, quái vật ở rừng rậm và cả những bộ lạc Orc, nhưng cũng vì thế mà tốc độ di chuyển của họ mỗi lúc một chậm lại. Càng chậm thì lương thực càng không đủ để họ có thể đối mặt với sự khắc nghiệt của dãy Wrym.
“Đây là tất cả những gì còn lại của chúng ta…”
Khi rời làng, toàn bộ lương khô, hoa mà người dân gom góp được chỉ vừa đủ để chất lên năm xe ngựa, và nay số xe chỉ còn lại hai. Rủi thay bất trắc xảy ra với bất kỳ xe nào trên con đường đầy nguy hiểm này, chẳng ai sẽ dám đảm bảo rằng tám trăm Nhân Thú sẽ lành lặn đến được Shinkirou.
Không chỉ có vậy, bảo vệ an toàn cho dân làng là điều vô cùng quan trọng. Nhưng điều đó chắc chắn không thể tiếp tục duy trì được lâu nữa với khung cảnh đồi núi hiểm trở trước mắt. Ngay từ lối vào khe núi, các Nhân Thú đã có cảm giác rằng Tử Thần đang ở đâu đây rất gần họ.
Chừng ấy yếu tố thôi cũng đủ để Mando khẳng định: Dù Fujinomiya Yuuri có kỳ diệu như thế nào đi nữa thì cũng chẳng thể đảm bảo rằng tất cả Nhân Thú sẽ luôn an toàn, lương thực sẽ không gặp bất trắc…
Và Kurogane Kihaza sẽ giữ được mạng sống.
“Khăn đây, thưa cô.”
“Cảm ơn con.”
Nhận chiếc khăn từ tay Yuuri, Masumi khẽ kéo tấm mền đắp trên cơ thể Kihaza xuống và bắt đầu lau đều đặn, từ ngực xuống tận bụng. Thân hình hết sức cân đối của cậu nay teo lại như một khúc củi chết khô, giòn và dễ dàng bị bẻ gãy trong tay một đứa trẻ con. Da cậu vẫn nhạt thếch một màu, không có dấu hiệu khởi sắc sau một thời gian dài chữa trị, và mái tóc trắng kia đang dài ra, che đi đôi mắt nhắm nghiền không biết khi nào sẽ mở ra.
Lau hết phía trước, Masumi lại truyền khăn cho Yuuri. Cô bé nhận lấy rồi thả vào thau nước ấm được đặt cẩn thận bên cạnh, tay bắt đầu chà thật sạch đất bẩn trên khăn.
“Thằng nhóc này…”
Nhìn cái cảnh ấy, Mando chẳng thể làm gì ngoài nghiến răng cay đắng. Lòng thầm nhủ sẽ không liếc về sau nữa, ông quất roi và giật cương thật chắc để ngựa di chuyển vừa đều, vừa chậm rãi.
“Con lau đi.”
Khăn vừa được vắt xong thì Masumi đã nâng Kihaza lên, để cơ thể cậu dựa vào người mình. Cô bé Yuuri gật nhẹ đầu rồi bắt đầu đưa khăn lên lưng cậu. Cả hai, một người đỡ, một người lau, mà vẫn không thôi nhìn, mong rằng cằm cậu sẽ ngừng tựa cả vào vai Masumi như thế.
Vừa lau, Yuuri vừa khẽ đưa tay chạm vào lưng Kihaza. Ma lực của cô âm thầm lan tỏa khắp tứ chi và nội tạng, kỹ lưỡng kiểm tra tình trạng của chàng trai.
“Vẫn như vậy. Necromastery của anh ấy vẫn hoạt động mạnh mẽ… Con không ngăn nó lại được…”
Cô bé ảm đảm thở hắt ra một tiếng, đủ lớn để mọi người cảm thấy được sự mệt mỏi.
Nỗi kinh hoàng tiềm tàng trong Kihaza, Necromastery, vẫn đang tỏ ra là một “con rệp” ký sinh quá tầm với. Fujinomiya Yuuri, sau mọi nỗ lực kiềm hãm, đã đầu hàng trước lời nguyền quái ác này trong ngày thứ mười hai không ngừng sử dụng sức mạnh để tách nó ra khỏi cơ thể chàng thanh niên. Cô bé lúc này cũng chẳng thể làm gì hơn ngoài mong chờ vào một điều thần kỳ, như Masumi, như Mando, và cũng như mọi Nhân Thú.
Trong lúc ấy, Kurogane Kihaza sẽ vẫn rũ rượi như một cái xác vô hồn, không chút sức sống. Bản thân mẹ cậu có thể cảm thấy được sự mong manh chưa từng thấy trong sinh mạng của cậu con trai, và dường như, chỉ cần sảy tay siết mạnh cũng đủ để khiến xương cốt cậu vỡ vụn.
“Nào, đưa khăn cho ta đi.”
Tuy nói vậy, nhưng khăn chưa kịp trao đến thì tay Masumi đã nhanh chóng giật lấy. Sau đó, cô đùn cơ thể của Kihaza vào cô bé Yuuri. Dù chuyện này vẫn lặp đi lặp lại hơn mười ngày, nhưng sự lóng ngóng mỗi khi cô bé đón lấy vai chàng trai, rồi để cho lưng cậu dựa cả vào người quả là một khung cảnh đáng yêu. Đó là một chút vui vẻ nho nhỏ mà người mẹ ấy tìm được cho mình trong cảnh vô vọng bấy giờ.
“Xin cô hãy thôi làm vậy đi ạ…”
“Thằng bé này cần con nhiều hơn ta, Yuuri ạ. Giao nó cho con ta cũng thấy yên tâm hơn.”
Sức nặng của cơ thể Kihaza, tuy đã giảm đi rất nghiêm trọng, nhưng vẫn đủ để làm khó một cô bé Yuuri không hiểu sao lại lóng ngóng bất thường. Cô bất giác lùi cả thân mình về sau, khiến lưng chàng trai mất điểm tựa và cổ cậu bắt đầu trượt xuống. Siết mạnh tay hơn để giữ lại, cô bé vô tình làm cho cổ cậu dừng ngay trên ngực mình.
“Này…”
Giật mình vì tiếng kêu lớn đột ngột, Yuuri nhanh tay đặt Kihaza xuống tấm bạt, rồi vô thức lùi lại. Lông đuôi của cô bé rõ là đang dựng hết cả lên, mặc cho gương mặt vẫn không mấy tỏ ra ngượng ngạo.
“Chúng ta dừng lại ở đây và dựng trại thôi. Không nên đi vào khe núi vào ban đêm, nơi đó quá nguy hiểm.”
Chủ nhân của tiếng kêu không ai khác chính là Mando. Ông ngoảnh đầu lại và thông báo cho hai người một cách tỉnh bơ, hoàn toàn không lưu tâm đến nụ cười khúc khích của Masumi hay phản ứng kỳ lạ của Yuuri.
“Cảm ơn ông vì đã thông báo, Mando.”
Vừa đáp, Masumi vừa vắt khăn một lần nữa. Trước khi rời khỏi xe, cô vẫn bình tĩnh trao khăn cho Yuuri.
Dựng trại và kiếm củi, công việc này quả thực không dễ dàng gì, ngay cả với Nhân Thú. Họ buộc phải dựa hoàn toàn vào những người có khả năng chiến đấu. Masumi, dù có một gánh nặng là Kurogane Kihaza, vẫn không quên nhiệm vụ của mình. Là một thành viên mạnh mẽ trong đội bảo vệ, cô nhanh chóng hoàn thành công việc của mình trong nháy mắt.
Nhưng nhanh cách mấy thì ánh hoàng hôn cũng đã mất dạng sau những lớp núi đồ sộ hiểm trở, và một lần nữa, các Nhân Thú lại quây quần bên nhau, cùng nhau nấu những bát súp nóng dưới lửa trại. Họ lấy từ hai xe lương thực còn lại những thùng lương khô được bọc rất kín rồi bắt đầu chia cho nhau. Tuy là mỗi người chỉ được nhận một mẩu vừa đủ để khiến bản thân quên đi cơn đói, nhưng cảm giác ấm áp tràn trề lại tiếp cho Nhân Thú thêm nghị lực để nuốt thứ bột nhạt nhẽo và cứng khiểng ấy xuống cổ họng.
Trong lúc đoàn di cư lặng lẽ ăn uống và nghỉ ngơi, Mando, người duy nhất không bị ràng buộc bởi cơn đói, vẫn ngồi yên trên chiếc xe ngựa. Già làng Shizu đã được lũ trẻ con kéo đến bên bếp củi khô gần đó, nên ông không còn cảm thấy ngại ngùng gì để không quay đầu lại. Đằng sau, cô bé Yuuri đã nép mình vào trong tấm chăn đắp trên người Kihaza và ngủ thiếp đi từ lúc nào.
“Cô bé cần phải nghỉ ngơi nhiều hơn thế này, Mando ạ.”
Giọng nói tuy khẽ, song vẫn đủ để phá vỡ sự yên lặng hiếm có trên chiếc xe ngựa.
“Masumi, tôi chẳng thể khuyên con bé được nữa. Nó chỉ nhắm mắt ngủ vào những lúc như thế này, sau khi đảm bảo rằng rắc rối sẽ không ập tới với chúng ta.”
Vẫn không ngoảnh đầu, Mando đáp lại Masumi đang cầm trên tay một bát súp nóng bằng sự chán nản và lo lắng.
Và khi dứt lời, một sự việc mà chỉ có hai người họ mới biết lại xảy ra. Dưới tấm chăn, cơ thể cô bé Yuuri không ngừng run rẩy. Mồ hôi bắt đầu đổ nhễ nhại trên cả gương mặt cô, rồi nhanh chóng, đôi tay cô ôm chặt lấy cơ thể Kihaza, ghì mạnh. Chốc chốc, Mando lại thấy cô bé run mạnh như thể bị co giật, đầu không ngừng lắc. Trong đôi tai của Masumi, một âm thanh thống xót lặng lẽ vang lên, đứt quãng như bị chặn ở giữa cổ.
“Lại là cái âm thanh này… Âm thanh từ cổ họng của cô bé, ông nói là đã có từ khi ông mang cô ấy về Aqua sao?”
Mando không đáp bằng lời, chỉ gật nhẹ đầu. Ông chỉ biết nhìn mà không thể làm gì để giúp cô bé, vì đây là điều vốn đã xảy ra từ rất lâu.
Gần sáu năm về trước, trong một lần đến khu rừng Aprigrape cách thị trấn Baypost ba Nale về phía Bắc, Mando đã gặp được Fujinomiya Yuuri. Cô bé khi ấy chỉ là một tiểu Foxkin gầy gò, tội nghiệp. Trong đôi mắt cô hiện rõ lên sự hoang dại, sợ hãi và kiệt quệ. Ông đã bế cô từ trong bụi nho Aprigrape ra, rồi đem cô về thị trấn Aqua cùng với số nho. Lúc ấy, ông chỉ cảm thấy thương cảm cho cô, cùng với một chút hiếu kỳ với hai thanh kodachi mà cô luôn ôm chặt trong người, kể cả khi ở trên tay của mình.
“Trong nửa năm, Yuuri đã phải chống chọi lại những cơn ác mộng của chính nó, cho đến khi ta tìm ra được phương thuốc an thần. Giờ thì chúng đã quay trở lại… Thật khó hiểu…”
Đó là quãng thời gian mà người đàn ông ấy khổ sở nhất. Những giấc mơ mà Mando rất muốn được nhìn vào hành hạ Yuuri theo một cách mà chính ông phải cảm thấy sợ hãi. Nửa năm đầu ấy, ông chứng kiến cô bé co giật, thậm chí còn vô hình giải phóng một phần nhỏ ma lực của mình, phá nát không biết bao nhiêu lần căn phòng nhỏ mà cô tá túc.
Kiên trì bào chế một loại thuốc ngủ đặc biệt và tạo cho cô bé một cuộc sống mới không dính dáng đến quá khứ là nỗ lực tạm thời của Mando khi ấy. Và nó đã thành công vượt xa dự đoán của ông. Yuuri dần dần làm quen được với thị trấn Aqua sầm uất qua một chiếc áo choàng có mũ trùm rộng và tà dài đến quá khổ, vừa đủ để cô có thể che dấu dòng máu Nhân Thú của mình giữa loài người. Những cơn ác mộng cũng không xuất hiện đều đặn mỗi đêm nữa, và chúng hoàn toàn biến mất sau một năm đầy nỗ lực của cả hai.
Sự trở lại của những cơn ác mộng, điều mà Yuuri đang một lần nữa hứng chịu, mang đến cho Mando nhiều lo lắng. Ông có thể gần như hình dung ra được điều gì đó quá đỗi kinh khủng đã xảy ra với cô bé. Một điều đáng sợ đến nỗi cô phải rời bỏ nơi mình sinh ra, lưu lạc đến tận thị trấn Baypost.
“Theo như lời của già làng, con đường mà chúng ta đang đi là lối đi duy nhất dẫn đến Shinkirou…”
Và nó dài đến tận một nghìn sáu trăm Hamb[iii], một con số quá đáng kinh ngạc.
Một cô bé Foxkin có thể đơn thân vượt qua dãy Wrym, qua khu rừng đầy rẫy thú dữ lẫn quái vật chỉ để tìm đến những bụi Aprigrape cách quê nhà xa như vậy thì quả là phi lý.
Những cơn ác mộng đến và đi như thế cũng không phải tự nhiên mà có.
“Ta rất muốn biết quá khứ của Yuuri, Masumi ạ. Đây có thể là chìa khóa giải đáp tất cả…”
Gương mặt của Mando khoác lên một sự quyết tâm mạnh mẽ. Ông nhìn cô bé Yuuri đang cố gắng ôm chặt lấy Kihaza như một cách để tự trấn an tiềm thức trong giấc ngủ, cho đến khi cô tự mình thoát khỏi nó. Hơi thở của cô bé dần dần đều đặn, cơ thể cũng ngừng run rẩy và đổ mồ hôi, cuối cùng chỉ còn lại một khung cảnh ấm áp nơi cô ngủ với một vẻ bình yên lạ thường.
“Thằng nhóc Kihaza này quả thực là một bí ẩn không thể nào giải đáp được…”
“Cô nói đúng đấy. Tuy nhiên, cả ta lẫn cô đều không muốn bát súp nguội đúng không nào, Masumi? Nếu cô không chê, hãy ngồi ở đây và tận hưởng một chút khoảnh khắc hiếm có này đi.”
Lời mời của Mando đúng là không hề tệ chút nào, Masumi cân nhắc. Không có khung cảnh đáng yêu của cô bé Yuuri phía sau cơn ác mộng, ghì lấy Kihaza không muốn rời khỏi thì chuyến di cư lánh nạn này sẽ bị sự nặng nề và nỗi âu lo nhấn chìm.
Sau bữa ăn, các Nhân Thú lại tìm cho mình một chỗ thật ấm áp, khẽ thả lỏng bờ vai và tận hưởng một chút yên bình đạm bạc. Một ngày nữa lại trôi qua với họ chìm vào giấc ngủ.
Đó cũng là ngày cuối cùng mà họ giữ được lời hứa bất thành văn với Kurogane Kihaza, rằng sẽ không ai phải bỏ mạng trên đường đến Shinkirou.
Ngày thứ mười tám bắt đầu sớm hơn thường lệ, khi mà bầu trời vẫn còn chưa nhá nhem.
Một ngày không mấy tươi đẹp với cả đoàn, già làng Shizu ngước mặt lên rồi thở dài nói. Mando cũng chẳng cảm thấy bản thân bình tĩnh sao cho đủ. Trước mắt ông và trưởng đoàn, các Nhân Thú đang khẩn trương thu dọn để tiếp tục lên đường.
“Mando, cậu có thể cho ta biết tại sao chúng ta phải xuất phát sớm như vậy không?”
“Chúng ta đã chọn dãy Wrym thay vì con đường men theo bờ biển hướng ra đại dương Ruek, già làng ạ. Thay vì đối mặt với lũ thú dữ và bọn quái vật của rừng rậm, chúng ta sẽ phải giáp mặt với một chủng loài nguy hiểm không kém, Yêu Tinh Núi[iv].”
Chỉ cần nghe đến “yêu tinh”, già làng trông lo lắng ra mặt. Bà hiểu được sự nguy hiểm của lũ sinh vật tinh quái và tàn bạo này. Ký ức kinh hoàng về cái ngày chúng táo tợn tấn công làng và bắt đi hai đứa bé Foxkin rồi cưỡng bức tới chết quay lại, khiến bà vừa đau đớn, vừa không khỏi thấp thỏm cho sự an toàn của cả đoàn di cư.
“Cậu muốn đoàn đi thật sớm, có phải là để tránh mặt lũ quái vật này?”
“Vâng, đúng vậy. Đây là lúc mà lũ Yêu Tinh Núi còn đang mê mẩn ngủ sau một ngày hoạt động. Chúng ta buộc phải đi trước khi bình minh, nếu không sẽ phải đối mặt trực tiếp với bọn yêu tinh này. Chạm trán ngay tại nhà của chúng thì ngay cả Yuuri cũng không thể cứu được tất cả mọi người đâu.”
Mando nhấn mạnh về khả năng của cô bé Yuuri và những lợi thế của lũ Yêu Tinh, vô hình dung càng làm cho già làng Shizu thêm lo lắng. Bà một lần nữa ra hiệu cho mọi người mau chóng thu dọn, bởi Temp thứ hai sắp đến nhị hồi. Chậm thêm một chút nữa thì chắc chắn đoàn di cư sẽ khởi hành ngay lúc trời trở mình.
“Này, tôi có nên đánh thức bé Yuuri dậy không?”
Với con ngựa đã được ăn uống và nghỉ ngơi đầy đủ dắt trong tay, Masumi quay đầu lại hỏi Mando.
“Không sao, cứ để con bé ngủ thêm một lúc nữa. Chúng ta có thể cầm cự được cho tới lúc mặt trời lên.”
Với những cơn ác mộng đến từng đêm, cô bé Yuuri đều rất mệt mỏi khi phải thức dậy sớm. Từ khi cô cùng với Masumi ngày đêm chăm sóc cho Kihaza, Mando biết là quyết tâm làm cho chàng thanh niên ấy hồi tỉnh vẫn còn chưa nguôi. Lúc nào ông cũng cảm nhận được một nguồn ma lực vô hình truyền từ cơ thể cô bé sang chàng trai.
Nhìn vẻ đăm chiêu của Mando, Masumi chỉ gật đầu rồi ngồi lên ngựa. Cùng lúc, đoàn di cư cũng đã sẵn sàng để bắt đầu tiến vào mỏm núi bốc lên ngùn ngụt mùi vị nguy hiểm trước mắt.
Với tiếng ra hiệu của già làng, các Nhân Thú xếp thành hàng dọc dài rồi lần lượt đi vào mỏm núi. Lối đi duy nhất này chỉ rộng đúng ba Arse, nên những xe ngựa cuối cùng chỉ còn lựa chọn là vào sau. Họ di chuyển trong sự im lặng, từng người từng hàng, nghiêm túc đến căng thẳng.
Đội bảo vệ đoàn di cư phải giãn lực lượng mỏng hơn vì địa hình quá hẹp. Mỗi thành viên đang phải gồng gánh sự an toàn của trên dưới hai mươi Nhân Thú, một áp lực đủ để khiến cho ai nấy toát mồ hôi, mặc cho hơi lạnh của mỏm núi vào lúc hừng đông vẫn đang luồn qua những lớp vải.
Sự nghiêm túc ấy được duy trì liên tục cho đến lúc mặt trời mọc. Sau một hồi nói chuyện, già làng Shizu yêu cầu cả đoàn dừng chân, rồi cử hai người trong đội bảo vệ đi thám thính tình hình phía trước.
Chung quanh là vách núi xám xịt một màu, âm u ngay cả trong ánh bình minh cuối cùng, lại còn bốc lên một không khí hết sức tù tàn và tĩnh mịch, khiến ai nấy đều cảm thấy lạnh lẽo kỳ lạ.
“Chúng ta đang bị theo dõi…”
Đó là khẳng định của Mando. Với cảm quan của Chiêu Hồn Sư, của một người chết, của kẻ có thể lắng nghe những tiếng thì thầm của cô hồn, ông biết đoàn di cư đang bị một thứ sinh vật gì đó theo dõi.
Các Nhân Thú không thể nói gì thêm, vì bản năng dã thú chảy trong huyết quản của họ cũng đồng tình với người đàn ông này. Chung quanh họ là hai vách núi u ám một màu, bốc lên một thứ âm khí vừa quái lại vừa dị, khiến ai nấy đều lạnh người. Họ vừa nghỉ ngơi, vừa lắng nghe từng âm thanh khẽ nhất vang lên giữa lối đi hẹp, vừa quan sát mọi động tĩnh, từ trên tận đỉnh vách xuống đến mặt đất.
Sau một quãng sáu Temp trôi qua, hai người trong đội bảo vệ quay lại và báo cáo tình hình con đường phía trước cho già làng và trưởng đội bảo vệ Utsuro. Theo như lời của họ, không có bất cứ động thái nào cho thấy rằng có nguy hiểm với đoạn đường trước mắt. Tuy nhiên, cũng giống như cả đoàn, họ luôn có cảm giác rằng mình đang bị theo dõi.
Mando vẫn bình tĩnh lắng nghe, đồng thời âm thầm suy nghĩ và phân tích hiện tượng kỳ lạ đó. Những âm thanh của âm hồn lẫn cảm nhận ma lực của ông chỉ hoạt động đến một mức độ đủ để phát giác ra được kẻ theo dõi.
“Giá gì mà nhóc có thể nói chuyện được, Kihaza… Ah…Yuuri?!”
Bất giác quay đầu về phía sau xe như muốn tìm kiếm một chút hi vọng, Mando mới nhận ra là cô bé Yuuri đã tỉnh dậy từ khi nào. Tư thế ngồi thẳng dậy và đôi tai đang dỏng lên lắng nghe ấy của cô đã chứng minh được cảm nhận của tất cả mọi người là chính xác.
Có một thứ gì đó… Một sinh vật, đang âm thầm theo dõi cả đoàn di cư.
“Già làng Shizu, bà hãy cho mọi người tiếp tục đi. Chúng sẽ không tấn công chúng ta.”
Âm thanh vang lên trong tâm thức của già làng giống như một liều thuốc an thần không thể kịp thời hơn. Ngay lập tức, bà ra lệnh cho đội bảo vệ tiếp tục cảnh giác và cho cả đoàn di cư tiếp tục chuyến hành trình. Vẻ mặt có chút phấn khởi của bà xóa đi phần nào cảm giác lo lắng của mọi người, và sự thức giấc của cô Công Chúa nhỏ cũng làm họ cảm thấy an toàn hơn.
Tuy không có thắc mắc gì về quyết định của già làng, nhưng Mando thừa biết ai mới thực sự là người ra lệnh. Ông cảm thấy hiếu kỳ và cất lời hỏi.
“Yuuri này, sao con dám chắc rằng những kẻ đang theo dõi chúng ta sẽ không tấn công?”
“Con cũng không biết nữa… Nếu chúng muốn tấn công thật thì con sợ mình không cứu được hết mọi người… Nhưng mà, chúng không có ý muốn tấn công chúng ta thì phải…”
Vậy ra đó chỉ là cảm nhận? Mando thốt lên trong lòng rồi nhìn cô bé vừa trả lời xong đã lặng lẽ nằm xuống, bẽn lẽn thu mình vào trong tấm chăn, khẽ cựa quậy như đang tìm cảm giác thoải mái với một vẻ mặt hết sức ngờ vực.
“Vâng. Chúng đã ở đây từ rất lâu rồi, và có vẻ như không quá quan tâm đến các sinh vật khác. Con nghĩ chúng chính là chủ nhân của dãy núi này…”
Đó là câu trả lời cuối cùng của Yuuri. Cô bé lại tiếp tục quay người về phía sau, đặt cả cánh tay mình lên ngực Kihaza rồi nhắm mắt.
Với Mando, hành động này của cô lại vô cùng bất thường. Chủ nhân của dãy núi, nếu theo như lời của Yuuri, đã án binh bất động và chỉ theo dõi đoàn di cư vì họ đã đi vào lãnh thổ của chúng. Cô bé được phép nghỉ ngơi tùy ý, nhưng ngủ vào giấc mặt trời bắt đầu lên cao thì thực chẳng bình thường chút nào.
‘Có lẽ nào con bé vẫn chưa hoàn toàn hồi phục ma lực?’
Bản thân ông chắc chắn đến chín phần vào suy đoán ấy. Liên tục sử dụng ma lực để thỏa mãn cơn đói của Necromastery nhằm giữ lấy mạng sống cho Kihaza là một điều hết sức điên rồ, và chỉ có duy nhất Fujinomiya Yuuri mới có thể thực hiện được. Cô bé hẳn cảm thấy vô cùng mệt mỏi sau khi đổ dồn một lượng khổng lồ ma lực, và cô cần một giấc ngủ sâu để hồi phục.
Nhưng tại sao cô bé lại cần phải hồi phục gấp gáp đến như thế? Câu hỏi này còn khiến Mando lo lắng hơn nghi vấn trước đó, bởi đây là ngày đầu tiên ông chứng kiến cảnh Yuuri ngủ ngay vào buổi sáng. Có lẽ nào cô bé cảm nhận được một mối nguy hiểm khác mà đoàn di cư sắp lâm vào, và giấc ngủ ngày này là cách cô chuẩn bị để đối phó?
Tiếng roi quất vào mông ngựa có đôi chút loạn, làm con ngựa hơi lồng lên và đi nhanh hơn. Trong một khắc chìm đắm vào những nghi vấn, Mando đã lơ đễnh mọi thứ xung quanh. Ông gần như làm cho con ngựa mất kiểm soát, nhưng cũng kịp thời giữ chắc dây cương để khống chế nó. Một tiếng thở phào nhẹ của ông mang lại hồi kết cho Temp thứ ba của ngày thứ mười tám nhìn chung vẫn còn rất yên ắng.
Có lẽ ta đã quá cẩn trọng, Mando nghĩ. Sau hơn nửa ngày trôi qua, đoàn di cư vẫn không gặp nhiều trắc trở. Ngoài lối đi mỗi lúc một hẹp đi, các Nhân Thú vẫn chưa phải chạm trán với bất cứ một loài sinh vật nào của dãy Wrym, nơi còn được biết đến như một tử địa của nhân loại. Họ tiếp tục dừng chân, vừa nghỉ ngơi vừa cố gắng lấy lại một chút bình tĩnh.
“Mando này, tôi có chút thắc mắc.”
Người cùng đồng hành ở cuối đoàn với ông, Kurogane Masumi, bỗng cho ngựa đi song song với xe và cất lời hỏi.
“Cô muốn hỏi gì?”
“Ông có thể nói cho tôi biết một chút ít về Chiêu Hồn Thuật không?”
Một nữ nhân Tiên Tộc sẽ không hỏi những câu ngớ ngẩn như vậy, gương mặt của Mando như đã nói thay lời. Tuy có hơi bất ngờ, nhưng ông vẫn bình tĩnh đáp lại bằng một câu hỏi.
“Cô có hứng thú gì với thứ tà thuật này?”
“Ông với thằng bé đều là Chiêu Hồn Sư mà, phải không? Là mẹ của nó, nhưng tôi chỉ có thể đứng ngoài cuộc. Thế giới này đã trừ khử dòng máu của những kẻ có ước muốn trở thành pháp sư hắc ám… Nhưng nó vẫn chọn con đường này, của một kẻ sẵn sàng đối đầu với cả thế giới. Tôi muốn hiểu thằng bé, ít nhất là một phần nào đó ý chí thực sự của nó.”
Những lời nói gấp gáp và đôi chút vấp phạm là minh chứng cho một sự dè dặt đã tồn tại từ rất lâu. Có lẽ Masumi đã muốn hỏi Mando câu này từ khi ông trở thành một thành viên bất đắc dĩ của đoàn di cư, nhưng sự can đảm lúc ấy không cho phép cô làm điều đó.
“Trớ trêu nhỉ…”
Trước khi trả lời, người đàn ông đã gần đến cái tuổi của một lão già đứng tuổi méo miệng cười, không rõ là vì vui hay buồn.
“Chiêu Hồn Sư chúng ta sinh ra và chết đi vì một lý tưởng duy nhất, trở thành bậc thầy ma thuật hắc ám, làm chủ được ma thuật của cái chết.
Có lẽ cô không biết, nhưng ta chọn con đường này cũng là vì khi đến với Yggdrasil, ta vẫn còn vương vấn những người ta yêu thương. Đáng lẽ ra ta phải chết cùng họ, nhưng sự đời vốn éo le mà…
Chiêu Hồn Thuật không cho ta điều mà ta mong muốn đâu, Masumi. Ta sống mười lăm năm ở thế giới này, nghiên cứu tất cả mọi thứ ta tìm được về ma thuật hắc ám ấy, và kết quả chỉ là những cái chết tức tưởi. Sử dụng Chiêu Hồn Thuật phải trả giá bằng chính linh hồn sống của mình. Mang những người đã chết quay lại Midgard này, giam họ vào trong thân xác vốn chẳng còn gì để tiếc nuối… Nó thực sự vô nghĩa lắm, cô biết không?”
“Kihaza chắc cũng biết điều đó, phải không?”
Mỗi câu hỏi lại được đáp bằng một câu hỏi khác. Cả Mando lẫn Masumi có lẽ đã hiểu được suy nghĩ của nhau sau một thời gian cùng nhau tham gia chuyến hành trình.
“Phải, dĩ nhiên là cậu nhóc biết…”
“Và nó vẫn chọn tiếp tục theo đuổi thứ tà thuật ấy?”
Câu hỏi đó làm Mando ngập ngừng một lúc. Ông đã định gật đầu, nhưng lại chần chừ, như thể đang nghĩ ngợi mông lung gì đó, cuối cùng đáp bằng một cái lắc đầu dứt khoát.
“Cậu nhóc khác với ta, Masumi ạ. Ta không thể nào sánh ngang với con trai cô, vì điều mà cậu nhóc muốn là cái đích cao nhất của một Chiêu Hồn Sư, trở thành một thứ mà Tử Thần cũng phải sợ. Cậu nhóc muốn có được lý tưởng của Chiêu Hồn Sư, vốn chính là khả năng cải tử hoàn sinh, tuyệt kỹ cấm kỵ nhất của Yggdrasil. Cái giá của năng lực ấy, có lẽ không cần phải miêu tả đâu nhỉ…”
Cái chết, một điều chắc chắn. Cướp đi một linh hồn từ Địa Ngục Helheim cũng đồng nghĩa với việc bẻ gãy từng đốt ngón tay của Hel, giải thoát cho gông cùm của kẻ đã chết. Mang thứ đã chết thực sự sống lại, lớn lên rồi lại một lần nữa chết đi, nghe thật vô nghĩa, nhưng cũng là một lý tưởng.
“Cô có biết trước khi Kihaza một mình tham chiến với lũ chiến binh của thị trấn, cậu ta đã nói gì với ta không?”
Người chết không biết kể chuyện.
Từng từ một được Mando thuật lại với chất giọng trầm nhẹ. Không quá nặng nề, nhưng trong tim Masumi khi ấy cứ có cảm giác như ngực cô đang bị một khối sắt đè lên. Cô không nói gì, chỉ quay đầu liếc trộm lấy gương mặt của cậu con trai vẫn đang thoi thóp chưa biết khi nào sẽ tỉnh lại, rồi lại cất lời.
“Thằng bé… thực sự đã chết rồi sao?”
Có một chút nghẹn ngào trong lời của Masumi. Áp lực vô hình kia giờ lại là những con dao bén ngọt, đang không ngừng cứa vào tim cô, đau đớn đến tột cùng. Tuy nhiên, nó cũng chỉ đến rồi đi như một cơn gió thoảng qua, vì người đàn ông ấy lại một lần nữa lắc đầu.
“Không, con trai cô vẫn còn sống. Dù trông tàn tạ như thế, cậu nhóc vẫn cứ sống.”
Khẳng định vừa rồi của Mando chỉ thực sự là chắc chắn sau những ngày cùng đoàn di cư tiến về Shinkirou. Ông vẫn luôn ngờ vực vào sức sống của Kihaza, của linh hồn cậu sau khi biến mình thành vật chủ của Necromastery, cấm nguyền cổ xưa nhất của các Chiêu Hồn Sư.
Cả hai người họ vừa nhìn nhau, rồi lại quay đầu về phía sau. Những hơi thở yếu ớt của Kihaza thậm chí còn không làm phiền cô bé Yuuri. Trong tấm chăn ấy, có lẽ vòng tay của cô bé lại quàng hết ngực cậu để truyền đi một chút hơi ấm cho phần xác thịt vẫn lạnh tựa một tảng băng của phương Bắc xa xôi.
Trao cho nhau hai tiếng thở dài trước khung cảnh ấm áp mà éo le ấy, Masumi cảm ơn Mando về những gì ông chia sẻ. Tuy nhiên, người đàn ông ấy cũng có nghi vấn của riêng mình về người phụ nữ Tiên Tộc này. Ông gật đầu rồi cất lời hỏi.
“Cô thắc mắc những điều này, là để hiểu hơn về thằng nhóc Kihaza đó phải không?”
“Phải.” – Masumi ngắn gọn trả lời bằng một cái gật đầu.
“Ta không nghĩ vậy đâu.”
Đôi mắt của người chết ẩn chứa một cảm giác lạnh lẽo y như thân xác vốn đã được trả về cho Đất mẹ. Tròng mắt và nhãn cầu như hoán đổi vị trí cho nhau, và khi đối mặt với đôi mắt trắng dã vô hồn của Mando, người phụ nữ ấy đã e dè.
Nhưng không phải vì sợ, mà là vì ông đã nói đúng.
“Cô nghĩ ta không để tâm sao? Tụi nhỏ bạn học của Kihaza vẫn còn là người của thế giới ngoài kia. Chúng phải đến và đi giữa hai thế giới thường xuyên như vậy vì chúng còn có trường, còn có bạn bè, gia đình.
Nhưng cô, Kurogane Masumi, thì lại không như tụi nhỏ. Cô đã song hành cùng với các Nhân Thú từ khi họ rời đi, ta nói không sai chứ?”
Người đàn ông này biết điều gì đã và đang xảy ra, cô có thể đoán được chuyện đó. Một khi đã bị phát hiện thì giấu diếm cách mấy cũng vô ích, Masumi thầm nghĩ để rồi tiếp tục tìm lấy can đảm mà lên tiếng.
“Ông đoán đúng cả, Mando ạ. Phải, tôi đã làm điều đó, từ bỏ thế giới kia và đến với Yggdrasil này. Chính phủ Nhật Bản đã đồng ý với yêu cầu của tôi, nên…”
“Ý ta không phải là thế.” – Mando chợt chen ngang vào – “Tuy có hơi tế nhị nhưng… cậu ta… Kurogane Ichiro ấy, cậu ta cũng đồng ý sao?”
“Ơ…”
Có một chút bất ngờ trên gương mặt của người phụ nữ Tiên Tộc trẻ trung. Dường như cô không nghĩ rằng Mando lại nhắc đến một nhân vật đáng lẽ ra không nên dính dáng đến chuyện này.
“Họ để cô đi như thế thì ta có thể hiểu được. Gia đình cô dù gì cũng là một niềm tự hào của Nhật Bản. Nhưng kể cả Kurogane Ichiro cũng đồng ý để cô từ bỏ thế giới ngoài kia… Ta không nghĩ cậu ta làm vậy mà không có lý do.”
Ra vậy, Masumi thầm nghĩ. Có vẻ như tiếng tăm của gia tộc Kurogane đã đi vượt cả thời không để đến với Yggdrasil, khiến cho mỗi hành động của một thành viên trong gia tộc ấy trở thành một đề tài đáng để chú ý.
Là một phần của gia đình nhỏ mà không hề “bé nhỏ” đó, cô hiểu ẩn ý của Mando. Tuy nhiên, đó cũng là lúc cô dứt khoát trả lời.
Mọi chuyện đều là từ anh, vì vậy nên ngay cả khi em chọn con đường từ bỏ thế giới bên ngoài để đến với thằng nhóc Kihaza thì anh cũng không thể ngăn cản được. Dù sao, nó cần em, Mashu…
“Anh ấy đã nói với tôi như thế. Có lẽ ngay từ đầu anh ấy đã biết chuyện này sớm muộn gì cũng sẽ đến nên khi tôi đưa ra quyết định, Ichiro chỉ có thể ủng hộ.”
Cả Anzu và con trai chúng ta… đều là anh đã hại họ. Nếu như em có thể bù đắp được cho hai người ấy, hãy đến với họ. Anh không có tư cách để đứng ở trước mặt họ để nói hai tiếng xin lỗi nữa rồi.
Một khoảng lặng. Cả Mando và Masumi cùng nhìn nhau, rồi lại ngửa mặt lên, mắt hướng lên bầu trời nay đã bị hai bên là núi che khuất, hẹp chỉ bằng một đường ngang ngoằn ngoèo rối bời, cuối cùng thở dài, như thể bản thân cảm thấy nhẹ nhõm hơn vì một gánh nặng đã được trút bỏ.
Đoàn di cư lại tiếp tục lên đường. Họ đi liên tục suốt hai Temp không ngừng nghỉ, dưới không khí nặng mùi sỏi đá và bụi tro. Sự khó chịu ấy khiến nhịp bước của cả đoàn chậm đi, song họ vẫn có thể đến được điểm dừng chân đầu tiên.
Cánh cổng Shindou, được các Nhân Thú cổ xưa xây dựng được bảy nghìn năm, đang ở trước mặt các hậu bối.
“Được rồi, hôm nay chúng ta sẽ nghỉ ngơi ở đây.”
Già làng Shizu gật đầu quyết định, và ngay lập tức, các Nhân Thú lại tìm về nhóm của nhau để sinh hoạt.
“Thật may vì trước cánh cửa này là một khoảng đất trống tương đối rộng.”
Họ mỉm cười với nhau và nói. Tuy nhiên, với đội bảo vệ, sự căng thẳng vừa được đẩy lên một mức cao hơn. Thật khó mà tin được trước cảnh cổng lại có một khoảng đất vòng cung trống đủ lớn để chứa được cả tám trăm Nhân Thú. Dù không quá tiện nghi, song họ vẫn có thể thoải mái tận hưởng một chút cảm giác không gian rộng rãi sau một ngày vượt qua con hẻm chật chội.
Nhưng đó cũng là cửa tử với đoàn di cư, nếu như lũ Yêu Tinh Núi chọn nơi này làm vị trí để phục kích. Với nhiều người, sự yên lặng của cả dãy núi lừng danh là đáng sợ như địa ngục này mới thực sự là nỗi khiếp đảm. Sự thuận lợi khó tin thực khiến cho lòng họ cảm thấy nghi hoặc, và thậm chí còn mường tượng đến những viễn cảnh tồi tệ đang chờ ở phía trước.
“Một cánh cổng làm bằng đá và khắc Cổ Ngữ… Thật là hiếm thấy…”
Với Mando, được tận mắt chiêm ngưỡng một công trình tuyệt vời như cánh cổng Shindo là một niềm vui không nhỏ. Một cánh cổng vòm rộng đến tận mười Arse, và có lẽ là nó cao khoảng mười lăm Arse, đủ để một con rồng con chui vừa vào trong. Cổ ngữ được khắc trên vòm cổng vẫn còn nguyên vẹn, như thể thời gian chưa từng khiến chúng bị phai mờ. Hai cánh cổng khắc hình Cửu Vĩ trong truyền thuyết của Nhân Thú đang uy nghi phô trương chín cái đuôi khổng lồ của mình.
“Bảy nghìn năm… Các Nhân Thú cổ thật là tài hoa…”
“Cậu nói thế là sai rồi, Mando.”
Tiếng thì thầm của ông đã bị già làng Shizu nghe thấy cả. Bà lắc đầu phản đối ý kiến đó, đơn giản vì người đàn ông này không biết chính xác ai, hay tộc Nhân Thú nào đã tạo ra cánh cổng. Một nụ cười mỉm nở ra trên gương mặt của bà lão, như để bắt đầu cho câu chuyện thực sự.
“Đây là công trình của một mình tộc Foxkin, cậu Mando ạ. Trong tất cả Nhân Thú, họ là tộc duy nhất sở hữu ma lực to lớn và có thể sử dụng ma thuật, điều duy nhất giúp họ dựng nên cánh cổng Shindo này đây.
Bảy nghìn năm trước, khi mà loài rồng hãy còn ngự trị các lục địa và không ngừng đấu đá lẫn nhau, các tộc Nhân Thú đã quyết định đi tìm một vùng đất mới, một nơi cách biệt với cuộc chiến. Tìm đến dãy Wrym, họ đã chạm trán với Yêu Tinh Núi. Trước sự đông đảo của chúng, đồng loại của chúng tôi đã chiến đấu kiên cường. Rất nhiều Nhân Thú đã hi sinh trong trận chiến với lũ quái vật đó, song chúng tôi vẫn giành được chiến thắng…”
Nói đến đây, già làng ngưng lại và lấy túi nước ra. Dường như tuổi già đã gây không ít ảnh hưởng lên cổ họng của bà, và chỉ có nước mới có thể làm dịu được cảm giác khó chịu ấy.
“Nếu như vậy… thì nơi chúng ta đang nghỉ chân chính là…”
“Đúng vậy. Đây từng là chiến trường đẫm máu ấy. Đất ở đây nhuốm đầy máu của các Nhân Thú, cậu Mando ạ.”
Ngay sau khi uống lấy một ngụm nước, già làng hít một hơi dài và tiếp tục kể.
“Nhân Thú chúng tôi khi ấy không hề muốn có thêm đổ máu, vì vậy mà ngay sau khi tìm thấy Shinkirou bây giờ, các quý tộc Foxkin đã quyết định tạo nên một con đường bên trong những ngọn núi. Cánh cổng Shindo này chính là lối dẫn vào con đường ấy. Những hoa văn và Cổ Ngữ trên cánh cổng, theo như những gì ta được người tiền nhiệm kể lại, là tổ tiên của Công Chúa, Lục Vĩ Fujinomiya Setsuna.”
Vậy ra đó là lịch sử của cánh cổng có tuổi đời bảy nghìn năm này, Mando trầm trồ trong thâm tâm. Ông cũng được một phen mở rộng tầm mắt khi biết về tổ tiên của cô bé Fujinomiya Yuuri.
‘Xem ra dòng máu quý tộc của Yuuri cũng là từ truyền thuyết này…’
Mando khẽ đánh mắt về phía sau xe ngựa. Cô bé và Masumi vẫn đang tận tình chăm sóc cho Kihaza. Liếc trộm gương mặt không mấy khá hơn mọi khi của Yuuri một lúc, ông lại hướng mắt mình lên những dòng cổ ngữ trên cánh cổng Shindo. Có một chút hiếu kỳ dâng trào trong lòng ông, để rồi bật thành câu hỏi với già làng Shizu.
“Tôi vẫn chưa hiểu… Tại sao Nhân Thú các vị lại xây dựng nên con đường ấy trong khi có thể ở lại Shinkirou, tách biệt với thế giới bên ngoài?”
“Chúng tôi chưa bao giờ muốn giống loài của mình biến mất trên vùng đất Midgard này. Con đường này được tạo ra vì một mục đích duy nhất, cậu Mando, đó là để những hậu bối quay trở lại vùng đất xưa”. Già làng đáp dứt khoát và nhanh chóng như thể đọc được suy nghĩ của Mando.
“Ra là thế…”
Với tất cả những thông tin mà ông thu thập được, Mando đã cảm thấy thỏa mãn phần nào. Ông cũng ngầm hiểu lý do tại sao các Nhân Thú lại quay trở về Shinkirou một cách gấp rút như vậy.
Sự tồn vong của giống loài họ lại một lần nữa là vấn đề nan giải, khi mà Giáo Hội trên khắp Midgard này đã bộc lộ bản chất sa ngã thực sự. Một đạo quân lớn từ vùng Nomeon của phương Nam đang tìm đến họ, mang đến một tương lai đen tối cho các tộc Nhân Thú.
Họ sẽ trốn phía sau tòa thành Shinkirou đó cho đến khi nhân loại thực sự quên đi sự tồn tại của Nhân Thú hay sao? Liệu điều đó có thể thực hiện được không, khi mà nhân loại là một chủng tộc không hề yếu đuối ở Midgard? Ngay cả một kẻ từng là đồng loại với con người, Mando vẫn không dám đưa ra câu trả lời cho những nghi vấn ấy. Chúng mang tâm trí của ông đi quá xa so với buổi sinh hoạt thường nhật của đoàn di cư, vốn đã kết thúc sớm hơn dự kiến. Giật mình đưa mắt nhìn quanh một vòng, ông mới nhận ra là họ đã ngủ.
“Chú có biết ma thuật khắc trên cánh cổng ấy… là để làm gì không?”
Giọng nói vang lên trong tiềm thức của Mando bất ngờ hơn cả dự đoán của ông.
Đây đã là ngày thứ mười tám của chuyến hành trình, nhưng cô bé Yuuri vẫn không rời mình khỏi Kihaza nửa bước. Cô ngồi ở phía sau xe, khẽ truyền giọng nói của mình vào tiềm thức của người ân nhân xưa.
“Ta đã bắt đầu cảm thấy lạ khi chúng ta chưa gặp lấy một tên Yêu Tinh Núi nào ở đây cả. Đến bây giờ, sau khi đã lắng nghe và quan sát kỹ lưỡng, ta có thể chắc chắn rằng lũ quái vật đó không sống ở đây.”
Đó là một lời đáp lại không hề liên quan gì cả. Cả hai nhìn nhau, một trực diện, một chỉ đơn thuần là quay lưng lại và liếc mắt, nhưng sau cùng thì vẫn có tiếng nói chung giữa họ.
“Con đã đi một quãng đường dài rồi, Yuuri. Con có quá nhiều trách nhiệm phải gánh trên vai, và ta không…”
“Đừng… Chú đừng nói vậy…”
Cô bé lập tức chặn lời của ông, như thể cô đã biết.
Rằng Mando hiểu cổ ngữ ấy viết những gì.
“Trong lúc chúng ta còn có thể nói chuyện, ta muốn nói ra tất cả những gì ta giữ trong lòng bấy lâu nay, Yuuri ạ. Con đến với ta sáu năm trước, trong rừng Aprigrape ấy, còn nhớ chứ? Con nhớ gương mặt của mình khi đó không?”
Sau một thời gian quá dài ở bên chàng thanh niên, cô bé Yuuri đã chịu tách ra khỏi, và đến bên Mando như một mũi tên bay ngược từ phía sau rồi lại vòng về phía trước, vùi cả thân hình bé nhỏ của cô vào lòng ông.
“Ta biết là con không nhớ. Nhưng ta thì nhớ rõ lắm. Ta đã từng nghĩ rằng mình là kẻ bất hạnh nhất trên cõi đời này, sống dưới lớp mặt nạ của một tay pha chế dược liệu và cái nghiệp chướng Chiêu Hồn Sư. Khi gặp con và nhìn thấy gương mặt con lúc ấy, trong lòng ta chợt đau nhói, thậm chí còn hơn cả cái ngày ta đến với Yggdrasil này. Ta chợt nhận ra, trong Cửu Giới rộng lớn vô cùng đây vẫn còn có sinh vật đau thương hơn cả ta của ngày đó. Ta cảm thấy mình bé nhỏ và thực đáng thương khi dùng những định kiến ngớ ngẩn của kẻ lụy tình, lụy đời làm những viên gạch bao che cho sự nhu nhược, ngốc nghếch và trẻ con.
Con có thể nói là ta đã cứu mạng con, Yuuri. Con có thể tự hào và nói rằng Mando ta là ân nhân của con. Nhưng rốt cục thì người được cứu lại là ta, con gái ạ. Con đã cứu ta khỏi sự lụy tàn của chính bản thân. Cưu mang con suốt những năm tháng vừa qua là điều mà ta chưa từng cảm thấy hổ thẹn khi nhìn lại. Hai tiếng cảm ơn của ta có lẽ chẳng bao giờ đủ được, vì mỗi một ngày con đi rồi lại trở về bên ta, với bao nhiêu điều mới lạ thu vào trong đôi mắt con, rồi kể cho ta nghe… là những ngày con mang lại cho ta.
Cuộc sống của ta lại một lần nữa có thêm ý nghĩa, có thêm mục đích đều là nhờ có con đến với ta, Yuuri ạ. Ta luôn cảm thấy tự hào khi ở bên con, cho đến giây phút này…”
Giọng của Mando đều đặn và điềm tĩnh vô cùng. Nhưng đó cũng là lúc mà sự bình lặng bị phá vỡ. Những tiếng rống đinh tai đến từ mọi phương làm cả đoàn tỉnh giấc trong cơn mê man.
“Wyrone!!!”
Tiếng hét của đội trưởng đội bảo vệ Utsuro khiến sự hoảng loạn dâng trào như một cơn sóng dữ không tìm được bờ. Các Nhân Thú chỉ biết sợ hãi, vừa cuống cuồng thu dọn, vừa không kiềm được những tiếng thét khiếp vía với lũ quái vật của Wrym.
Wyrone là những con thằn lằn to xác sống ở dãy núi không bóng người này. Hai chi trước là cánh và hai chi sau là một bộ vuốt sắc nhọn, cùng với diện mạo hao hao giống như loài rồng trong truyền thuyết xưa, lũ quái thú này là một cơn ác mộng không chỉ với nhân loại, Nhân Thú, mà cả đối với lũ Yêu Tinh Núi.
“Tất cả mọi người mau mau đi đến cánh cổng!!”
Già làng Shizu sau khi ra lệnh đã ngay lập tức được Utsuro dìu lên ngựa rồi chạy đến phía trước cảnh cổng Shindo. Đối diện với hai cửa vòm đầy uy nghi đó, bà hô lớn một đoạn thuật chú của Nhân Thú cổ. Chỉ sau vài giây chờ đợi, những ký tự cổ ngữ khắc trên cổng bừng sáng, rồi một chấn động nhẹ trên mặt đất ập tới, cùng với sự hé mở từ từ của hai cánh cổng vòm.
“Mọi người, hãy mau mau vào trong!!”
Không cần phải hối thúc thêm, các Nhân Thú chỉ biết cắm đầu chạy vào bên trong cánh cổng. Những tiếng đập cánh giữa vách núi khiến bước chạy của họ không những nhanh, mà còn mạnh. Tiếng rung của đất rất lớn, thậm chí còn hơn cả những tiếng gầm rú ở trên trời.
Tuy nhiên, trong sự hoảng loạn đó, một xe ngựa vẫn không hề chuyển bước.
“Nào… Yuuri. Con hãy thả ta ra đi. Đây là thời khắc của ta, và cũng là của con, con gái ạ. Kihaza có lẽ đã nói không biết chán điều này, nhưng ta vẫn muốn lặp lại nó một lần nữa.
Con là Công Chúa của họ, của các Nhân Thú. Họ cần con dẫn đường chỉ lối, con gái ạ. Hãy giúp họ và ta có thêm một chút thời gian nữa.”
Đó là lúc Mando buông tay. Mặc kệ những tiếng gầm mỗi lúc một đến gần và rõ hơn, ông vẫn bình tĩnh chờ đợi cô bé Yuuri ngẩng mặt lên.
“Mando! Ông mau cho ngựa chạy đi!!”
Giọng của Masumi vang lên, nhưng người đàn ông vẫn không có phản ứng. Ngựa của cô phi đến bên xe kéo, để cô chứng kiến một cảnh tượng thật khó diễn tả.
“Grruhhh…”
Lũ Wyrone, loài sinh vật giả mạo rồng của Wrym, đã đến. Một vài con đã sà xuống mặt đất, để lộ diện mạo hao hao giống với lũ quái vật một thời là chúa tể của Midgard. Không thể phun lửa và nhỏ bé hơn rất nhiều so với hàng thật, nhưng thân hình của chúng vẫn có thể đè bẹp sáu bảy người bình thường. Chúng tru lên, rồi cứ thế lao tới. Ở trên cao, những con khác cũng lao vút xuống, nhưng lại nhắm thẳng vào những Nhân Thú đang chạy thoát thân.
“Không xong rồi!! Mọi người mau chạy đi!!!”
Những người của đội bảo vệ đã giơ kiếm lên, sẵn sàng nghênh chiến với lũ quái vật của đồi núi. Khí thế của họ đã bị nỗi sợ hãi truyền lại từ bao đời làm cho lụy tàn đi quá nửa, và tay cầm vũ khí của họ đang không ngừng run rẩy.
“Đừng lo.”
Mando chợt cất tiếng. Ông quyết định thôi mong chờ, vì di nguyện của ông đã được hồi đáp.
“Mau chạy đi mọi người.”
Âm thanh ấy vang lên trong tiềm thức của mỗi Nhân Thú như thể là một liều thuốc tinh thần đến vừa kịp lúc. Họ cứ thế vùng chạy, nhanh hơn nữa và không quay đầu lại.
Vì ở phía sau, một Fujinomiya Yuuri đang đối mặt với bầy Wyrone, với tư cách là Công Chúa của các Nhân Thú.
“Đừng hòng động đến người dân của ta.”
Tuyên bố của cô bé đến cùng với một nguồn ma lực mãnh liệt, khiến cho lũ Wyrone giật nảy. Chúng có thể cảm thấy được sát khí đến từ một sinh vật quá ư nhỏ bé so với chúng, một thứ sát khí buộc chúng phải nhớ tới một sinh vật cổ xưa đã từng đẩy lùi giống loài chúng – các Vĩ Hồ.
Nhưng các Wyrone vẫn lao tới, như thể chúng không muốn bỏ phí cơ hội được ăn ngon sau bao nhiêu ngày đêm săn lùng Yêu Tinh Núi. Chúng cũng không ngần ngại tấn công cô bé Yuuri với những hàm răng chi chít nanh, hay những bộ vuốt sắc bén tựa vuốt rồng xưa kia.
Đáng tiếc thay, đó lại là một quyết định ngu xuẩn của lũ thằn lằn ấy. Trước khi có thể chạm đến một sợi tóc của Yuuri, hay của một Nhân Thú nào khác, chúng đã bị chặn đứng bởi một màn chắn ma lực thuần khiết. Cứng tựa vảy rồng, không thể xuyên thủng, màn chắn ấy sừng sững dựng lên, tạo thành một lồng kín ngăn cách đoàn di cư với lũ Wyrone, mặc cho chúng vẫn lao đầu vào đập phá.
“Cảm ơn con, vì đã trả lời, Yuuri.”
Đôi tai của cô bé khẽ rung động, như thể đã nghe được lời thì thầm của Mando. Nhưng cô vẫn không quay đầu lại, mà vẫn giữ nguyên tư thế ấy, nguồn ma lực ấy, như một cột trụ không thể cản phá trong mắt lũ Wyrone.
“Mashu, cầm lấy cương ngựa đi.”
“Sao cơ?”
“Hãy cầm lấy cương ngựa đi. Khi tôi ra lệnh, cô phải lập tức cho ngựa chạy đi ngay. Đừng quay đầu lại.”
Masumi có thể mơ hồ hiểu ra chuyện gì đã và đang xảy ra, vì vậy cô chỉ còn biết nghe theo lời của ông. Xuống lưng ngựa và vỗ mông cho nó chạy thẳng về phía cánh cổng, cô trèo lên xe ngựa và giữ lấy cương trong lúc Mando nhảy xuống rồi đi về phía sau.
“Nhóc ạ… Chiêu Hồn Sư chúng ta… không được chào đón ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này. Cánh cổng Shindo của Nhân Thú cổ thật là thú vị. Chỉ có kẻ còn sống mới được bước qua nó, đó là ý niệm của thuật chú khắc trên cổng. Có vẻ như không chỉ nhân loại, mà cả các Nhân Thú cũng không muốn một kẻ nào đã chết đi theo họ đến nơi họ trú ẩn suốt mấy nghìn năm qua đâu.”
Vừa leo lên, Mando vừa nói, tay cầm lấy tấm chăn rồi hất nó sang một bên. Cơ thể của Kihaza nằm bên dưới vẫn lạnh lẽo và không hề tìm thấy một chút sức sống. Ông khẽ đặt tay lên ngực cậu, nơi mà những vết bớt vẫn không ngừng ửng đỏ.
“Chuyến hành trình của ta đến đây là hết. Nhưng cậu thì không. Cậu còn sống, và nhất định phải sống, Kurogane Kihaza.
Loki không chỉ tìm đến mình cậu, mà đến với tất cả các Chiêu Hồn Sư còn tồn tại trên Yggdrasil này. Hắn chờ kẻ dám thực hiện cái sứ mệnh điên rồ ấy xuất hiện, bằng cách giết tất cả những kẻ khác bằng giao ước sức mạnh. Ta đã từ chối hắn, và có lẽ cũng vì thế mà ta chính là kẻ cuối cùng còn sống sót.
Ta chưa từng mong cậu đến với thế giới này và phát hiện ra thân thế của ta ngay vào cái giây phút đầu tiên chúng ta gặp nhau. Ta đã định ngăn cậu lại, Kihaza ạ, nhưng ta đã quá trễ. Sự muộn màng đó đã làm ta dằn vặt, nhưng bây giờ thì khác. Cậu đã thắng Loki, và trở thành kẻ thực hiện điều mà không ai dám mường tượng đến.
Vì vậy mà thế giới này cần cậu, Kihaza. Và con bé, nó cũng cần cậu. Ta sẽ không để những kỳ vọng đó bị một thứ nguyền chú này vùi dập đâu, nhóc!”
Dứt lời, một cột lục quang bừng lên rực rỡ ngay phía sau chiếc xe, ôm lấy hết cả Mando lẫn Kihaza. Nó không bị màn chắn ngăn lại, mà cứ thế xuyên qua khe núi, bốc tận lên những tầng cao.
Cùng lúc, lũ Wyrone bỗng hoảng sợ trước luồng lục quang ấy. Chúng lũ lượt quay đuôi bay đi, không dám ngoảnh lại trước sự chứng kiến của cô bé Yuuri. Thân hình bé nhỏ ấy vẫn đứng quay lưng về phía chiếc xe, không dám nhìn lại cho đến khi quầng sáng ấy biến mất.
“Đi đi, Mashu.”
Âm thanh vọng lên rất gần mà cũng rất xa xôi. Masumi vội đánh roi, khiến con ngựa lồng lên vùng chạy, hướng thẳng vào cánh cửa, nơi những người cuối cùng của đoàn di cư vừa kịp lọt qua. Cô không hề biết rằng trong giây phút đó, Yuuri đã ngồi ở phía sau xe ngựa, sát ngay bên cạnh Kihaza. Nhìn thấy cơ thể cậu, một thân hình quen thuộc với một sức sống mới lạ, cô bé không mỉm cười, mà chỉ ngậm ngùi cay đắng. Đặt tay lên vết bớt trên ngực chàng thanh niên, những tiếng sụt sùi khẽ vang lên, và hai hàng nước mắt đã chảy dài tự lúc nào không hay trên gương mặt cô bé.
Trong khoảnh khắc ấy, cô đã gửi giọng mình đi. Không phải đến với tiềm thức của Kihaza, mà là đến với trái tim cậu, linh hồn cậu.
Vì Yuuri biết, ở nơi đó người ấy sẽ nghe thấy điều mà cô muốn tự nói ra bằng giọng của mình, từ cái ngày họ gặp mặt lần đầu tiên.
Cảm ơn… cha.